4. Văn hoá Trung Quốc thời phong kiến
4. Văn hoá Trung Quốc thời phong kiến
Minh họa nổi bật nhất trong văn học bản địa này là trường ca sử thi Beowulf của người Anglo-Saxon. Lần đầu tiên được thể hiện ở dạng thành văn khoảng thế kỷ 8, bài thơ này kết hợp các truyền thuyết xa xưa của nhiều tộc người German ở tây bắc châu Âu. Đây là truyện kể về cuộc đấu tranh, các chuyến đi biển, cuộc mạo hiểm dũng cảm chống lại rồng và các thế lực tự nhiên. Bối cảnh của trường ca là trời, nhưng tác giả dựa vào trường ca một số tính chất thuộc chủ nghĩa duy tâm Cơ Đốc.
Beowulf rất quan trọng, không những là một trong số các tiêu bản đầu tiên trong thi ca của người Anglo-Saxon hay người Anh cổ, mà còn là bức tranh mô tả xã hội Anh và tổ tiên của họ vào đầu thời Trung cổ. Phần lớn số minh họa còn lại về văn học phổ biến trong thời kỳ này cũng được viết bằng tiếng Anh cổ, gồm các bài tụng ca Caedmon và rất nhiều khúc bi thương mô tả đức hạnh nguyên thủy trong nền văn hóa man rợ ban đầu. Nhưng không có mô tả nào về văn học bản địa trong thời kỳ này là mô tả hoàn chỉnh nếu không đề cập một số thành tựu của người Ireland.
Ireland cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7, trải qua một “Thời kỳ Phục hưng” rực rỡ làm cho đất nước này trở thành một trong những điểm sáng nhất trong cái gọi là Đêm trường Trung cổ. Không hưởng lợi từ ảnh hưởng trong văn hóa Latin, các giáo sĩ và thi sĩ Ireland viết nhiều câu chuyện kể về các chuyến mạo hiểm tưởng tượng trên bộ và trên biển, cùng hàng trăm bài thơ hoa mỹ, thể hiện sự hiểu biết đồng cảm với nhân tính.
Ngoài tác phẩm thần học ra, thành quả hàng đầu của các tác gia sáng tác bằng tiếng Latin vào đầu thời Trung cổ là lịch sử: Orosius, Gregory thành Tours và Bede. Theo yêu cầu của Thánh Augustine, một linh mục Tây Ban Nha tên Orosius viết quyển Seven Books against the Pagans.
Nổi tiếng không phải là do tính chính xác hoặc sự quyến rũ văn học, tác phẩm này là lịch sử thế giới cho thấy nhiều thiên tai giáng xuống các dân tộc cổ đại là do kết quả của tính chất đồi bại.
Giám mục Gregory thành Tours, một người gần cùng thời với Clovis, cũng sáng tác với quan điểm bênh vực niềm tin. Trong quyển History of the Franks ông tha thứ những kẻ mưu sát Clovis với lý do họ tận tâm phụng sự Giáo hội. Mặc dù tác phẩm của ông chứa đựng thông tin thú vị về các sự kiện diễn ra trong thời đại của mình, nhưng trong giải thích ông đưa vào phép màu của thánh tích và ông thường có khuynh hướng giải thích mọi sự kiện xảy ra theo cách siêu nhiên.
Hay nhất trong số các tác phẩm lịch sử đầu thời Trung cổ là Ecclesiastical History of the English Nation của Phó Giáo chủ Bede. Bede, một giáo sĩ người Anh, sống từ năm 673 đến 735. Quan tâm đến nghiên cứu học thuật hơn là thiền định mộ đạo, ông theo đuổi việc nghiên cứu của mình chuyên cần đến mức người ta xem ông như một trong số những người học thức nhất trong thời đại.
Trong khi sưu tầm tài liệu lịch sử, ông rất cẩn thận đối với các nguồn. Ông không ngần ngại bác bỏ lời phát biểu của một số nguồn có uy tín nhất khi ông nhận thấy trong lời phát biểu ấy có sự nhầm lẫn, và khi chứng cứ chỉ là lời khẩu truyền, thì ông cũng thành thật ghi chú rõ.
Trong khi một vài giáo sĩ Ki-tô giáo đã đi quá xa như Tertullian trong việc xem thường nỗ lực tri thức, thì vẫn có một vài người trung thành với nguyên tắc chung của ông cho rằng các tín điều không nên kiểm chứng bằng lý trí. Thánh Ambrose, tổng giám mục thành Milan trong thế kỷ 4, là một trong số này, cho dù triết học xã hội phóng khoáng và trí tuệ tuyệt đỉnh của ông.
Người cùng thời với ông, Thánh Jerome, là một trường hợp khác. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất trong số tất cả những người này là Đức giáo hoàng Gregory I (540-604), trong lịch sử Giáo hội thường được gọi là Gregory Cả. Là con cháu trong một gia đình nguyên lão giàu có, Gregory xem thường sự cám dỗ của của cải và quyền lực, ông dành trọn đời mình phục vụ Giáo hội. Ông cải tạo cung điện của bố mình thành tu viện, và ban phát tất cả số tài sản còn lại do ông thừa kế cho người nghèo.
Trong tác phẩm của mình trong tư cách một nhà thần học, ông nhấn mạnh đến ý tưởng ăn năn như một điều kiện then chốt để được chuộc lỗi và củng cố khái niệm thanh tẩy như một nơi ngay cả người công chính cũng phải trải qua vì những lỗi không đáng kể để được thanh tẩy, để được lên nước trời. Có lẽ hơn bất kỳ ai khác, ông là người phát triển học thuyết cho rằng linh mục khi làm lễ mass kết hợp với Chúa trong việc ban phép màu có tác dụng lặp đi lặp lại và nhắc lại sự hi sinh của Đức Ki tô trên thập giá.
Nổi bật nhất trong số các triết gia Kitô có thể được mô tả như những người đại diện cho truyền thống duy lý là Clement thành Alexandria và Origen. Cả hai đều sống trong thế kỷ 3, chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết Plato Mới và Thuyết Ngộ đạo, mặc dù họ không gắn bó triệt để với tất cả các quan điểm của hệ thống này. Không xem thường mọi kiến thức của con người, họ dạy rằng người giỏi nhất trong số các nhà tư tưởng Hy Lạp thật ra đoán được lời dạy của chúa Jésus, và đạo Cơ Đốc nên được cải thiện cho hòa hợp với kiến thức của tất cả xã hội.
Trong khi Clement và Origen không mang tính chất của những người theo thuyết duy lý hiểu theo nghĩa hiện đại, trong chừng mực họ tán thành nhiều suy nghĩ về niềm tin, nhưng dù sao họ cũng công nhận ý nghĩa quan trọng của lý trí, xem lý trí là cơ sở nền tảng của kiến thức cho dù đó là kiến thức tôn giáo hay thế tục đi nữa. Họ phủ nhận quyền năng vô hạn của Chúa và cho rằng quyền lực của Chúa bị hạn chế do tính thiện và hiểu biết của Người.
Họ phủ nhận thuyết định mệnh của nhiều người đối lập và nhất mực cho rằng con người bằng sự tự nguyện của mình sẽ định hình diễn tiến hành động trong khi còn sống trên trái đất. Họ tuyên bố không có vũ trụ cũng như không có bất kỳ thứ gì trong vũ trụ, xưa nay được tạo thành vào thời điểm thích hợp, thay vào đó, quá trình tạo thành mang tính vĩnh hằng, sự vật mới thay thế sự vật cũ trong chuỗi tiếp nối vô tận. Cả Clement lẫn Origen lên án chủ nghĩa khổ hạnh cực đoan của một số đồng đạo nhiệt thành hơn, nhất là, họ than phiền về khuynh hướng của những người như Tertullian xem hôn nhân đơn thuần là hình thức hợp pháp hóa ham muốn nhục dục.
Trái lại, họ công khai tuyên bố rằng tình trạng có vợ có chồng và sinh con là điều cần thiết không những làm cho xã hội tốt đẹp mà còn làm cho chính xã hội được hoàn thiện. Sau cùng, họ cho rằng mục đích của tất cả các hình phạt sau này đều là sự thanh tẩy chứ không phải là trả thù. Do đó hình phạt dưới địa ngục không thể mang tính vĩnh hằng, vì ngay cả người đen tối nhất trong số những người phạm tội sau cùng đều được cứu rỗi. Nếu không phải như thế, thì Chúa không phải là Chúa nhân từ, thánh thiện.
Thâm thúy nhất và có lẽ cũng là người độc đáo nhất trong số các triết gia Kitô thời kỳ đầu là Thánh Augustine. Nói chung trong chừng mực có thể phân loại ông, một mặt, ông ở vị trí giữa Clement và Origen, và mặt khác ông ở giữa Tertullian và Gregory. Mặc dù dám chắc rằng chân lý khải huyền cao hơn lý trí tự nhiên, ông nhận thấy nhu cầu phải có sự hiểu biết tri thức về những gì mình tin tưởng. Sinh năm 354, bố là dân ngoại đạo, mẹ là tín đồ Kitô giáo, Augustine bị giằng xé bởi những xung động mâu thuẫn nhau trong phần lớn cuộc đời mình.
Khi còn trai tráng, ông đã mê thú vui nhục dục, ông cố gắng trốn thoát nhưng chỉ hoài công, mặc dù ông thú nhận trong quyển Confessions rằng nỗ lực của mình không phải lúc nào cũng thành tâm. Thậm chí sau khi đính hôn, ông vẫn không thể cưỡng nổi sự cám dỗ quen với một tình nhân mới. Trong khi đó, khi gần 18 tuổi, ông cảm thấy thích thú với triết học khi đọc quyển Hortensius của Cicero.
Ông chuyển từ hệ thống tư tưởng này sang hệ thống tư tưởng khác, nhưng không thể tìm ra sự thỏa mãn tinh thần trong bất kỳ hệ thống nào. Trong một thời gian ngắn, ông nghĩ đến khả năng có thể của đạo Cơ Đốc, nhưng đạo Cơ Đốc tạo cho ông có cảm giác tôn giáo này quá thô thiển và mê tín.
Kế đến trong 9 năm, ông là tín đồ của Mani giáo Ba Tư, nhưng sau cùng ông nhận thấy niềm tin này đang suy đồi. Sau đó ông chuyển sang tìm hiểu thuyết Plato Mới, và sau cùng, sau khi lắng nghe lời giảng của Ambrose, ông trở lại đạo Cơ Đốc. Mặc dù khi vào đạo ở tuổi 33, Augustine nhanh chóng thăng tiến đảm nhận nhiều chức vụ trong Giáo hội. Năm 395 ông trở thành Giám mục xứ Hippo ở Bắc Phi, ông giữ chức vị này cho đến khi chết vào năm 430.
Trong tư cách một triết gia, Augustine đúc kết nhiều học thuyết của mình từ những người theo thuyết Plato Mới. Ông tin tưởng tuyệt đối vào chân lý tuyệt đối, vĩnh hằng, và kiến thức bản năng mà Chúa đưa vào trí tuệ của nhân loại. Tuy nhiên, kiến thức quan trọng nhất là kiến thức về Chúa và kế hoạch cứu rỗi nhân loại của Người. Mặc dù hầu hết kiến thức này phải được phát xuất từ sự khải huyền ghi trong Kinh Thánh, nhưng dù sao đi nữa, nhiệm vụ của con người là phải hiểu về nó càng nhiều càng tốt để củng cố niềm tin.
Dựa trên kết luận này, Thánh Augustine phát triển khái niệm nổi tiếng về lịch sử nhân loại như sự phơi bày ý Chúa. Mọi thứ đã diễn ra hoặc sẽ diễn ra tượng trưng cho một tình tiết trong sự thực hiện kế hoạch thần thánh. Toàn bộ nhân loại gồm 2 sự phân chia chính: những người được Chúa chỉ định trước, được hưởng sự cứu rỗi vĩnh hằng cấu thành Thành phố của Chúa, tất cả những người khác thuộc về Thành phố Tại thế.
Kết thúc vở kịch lịch sử này diễn ra cùng với Ngày Phán xét, khi đó một vài người được ban phúc, những người cấu thành Thành phố của Chúa sẽ khoác lên người bộ trang phục bất tử, trong khi tuyệt đại đa số trong vương quốc Tại thế sẽ bị ném xuống lửa địa ngục. Theo Thánh Augustine, đây là toàn bộ ý nghĩa sự tồn tại của con người.
✥ Constantine Đại Đế, Kitô Giáo và một La Mã Cải Đạo✥ Ly giáo Iconoclasm – đế quốc Byzantium✥ Thánh Giáo hoàng Leo Cả, Vị Bảo Trợ Thành Rome
Thần học của Thánh Augustine là một bộ phận không thể tách rời với triết học của ông. Cho rằng mình đã làm như một vị thánh kiểm soát hoạt động của vũ trụ cho đến tận chi tiết nhỏ nhất, lẽ đương nhiên ông nhấn mạnh quyền năng vô hạn của Chúa và ấn định những hạn chế của sự tự nguyện. Vì bản chất của con người là phạm lỗi, nên ý chí phải đấu tranh chống lại thiên hướng làm điều xấu. Mặc dù con người có quyền chọn giữa điều thiện và điều ác, nhưng chính Chúa là người tạo ra động cơ thúc đẩy hoặc “truyền cảm hứng” cho sự lựa chọn ấy.
Vì thế, người đức hạnh phải cám ơn Chúa đã giúp mình có khả năng chọn con đường đức hạnh. Chúa tạo thành thế giới trong hiểu biết rằng một số người đáp lại “lời mời” của thần thánh kêu gọi nên sống cuộc đời thánh thiện, và những người khác phản đối hoặc không chịu hợp tác. Theo cách này, Chúa định trước một phần nhân loại được cứu rỗi và phần còn lại phải bị diệt vong, hoặc nói cách khác, Người lúc nào cũng ấn định số lượng cư dân trong thành phố trên trời.
Không phải Người chọn một số người để được cứu rỗi và gạt bỏ cơ hội được cứu rỗi của tất cả những người khác. Đúng ra, Người biết rõ từ mọi sự vĩnh hằng rằng một số người nào đó không muốn được cứu rỗi. Ảnh hưởng của Thánh Augustine rất lớn. Mặc dù lời dạy của ông được Công đồng Orange sửa đổi chút ít vào năm 529, và các nhà thần học vào cuối thời Trung cổ sửa đổi nhiều hơn, nhưng cho đến nay, ông vẫn được kính trọng như một trong số những nhà tư tưởng quan trọng nhất của Thiên Chúa giáo La Mã. Luther và các nhà Cải cách Tin Lành khác cũng tỏ lòng kính trọng cao nhất đối với ông, mặc dù họ có cách hiểu lời dạy của người hoàn toàn khác hẳn với cách hiểu của những người Kitô giáo trước đó.