Đối với việc phân tích dữ liệu, bạn phải làm việc với rất nhiều công cụ như Tableau, PowerBI trong việc Visualize, SQL trong việc truy vấn, xử lý dữ liệu, Python để mã hóa dữ liệu,… Tuy nhiên, không phải DA nào cũng cần biết sử dụng hết các công cụ và ngôn ngữ công nghệ trên. Tùy vào tính chất công việc và kỹ năng chuyên môn, một người làm phân tích dữ liệu sẽ sử dụng các công cụ linh hoạt để phục vụ cho công việc của mình.
Đối với việc phân tích dữ liệu, bạn phải làm việc với rất nhiều công cụ như Tableau, PowerBI trong việc Visualize, SQL trong việc truy vấn, xử lý dữ liệu, Python để mã hóa dữ liệu,… Tuy nhiên, không phải DA nào cũng cần biết sử dụng hết các công cụ và ngôn ngữ công nghệ trên. Tùy vào tính chất công việc và kỹ năng chuyên môn, một người làm phân tích dữ liệu sẽ sử dụng các công cụ linh hoạt để phục vụ cho công việc của mình.
Công việc đầu tiên của bạn nếu theo đuổi lĩnh vực khoa học dữ liệu ở Việt Nam có thể là một Data Analyst cấp cơ sở. Nếu bạn có một số kinh nghiệm với các kỹ năng phân tích có thể chuyển giao từ công việc trước đây, bạn có thể được thuê làm nhà phân tích dữ liệu.
Khi bạn có kinh nghiệm với tư cách là một nhà phân tích dữ liệu, bạn có thể có cơ hội để thăng tiến sự nghiệp của mình theo một vài hướng khác nhau. Tùy thuộc vào mục tiêu và sở thích của mình, bạn có thể tiến bộ trong các lĩnh vực khoa học dữ liệu, quản lý, tư vấn hoặc với nhiều vai trò dữ liệu chuyên biệt hơn.
Nhiều nhà khoa học dữ liệu (Data Science) thường bắt đầu với tư cách là Data Analyst. Nhiều nhà khoa học dữ liệu cũng có bằng về khoa học dữ liệu, khoa học máy tính hoặc một lĩnh vực liên quan. Mặc dù bằng cấp có thể không quá cần thiết, nhưng nó có thể đồng nghĩa với việc bạn sẽ nhận được nhiều cơ hội việc làm hơn.
Một con đường sự nghiệp phổ biến khác của các nhà phân tích dữ liệu là chuyển sang các vị trí quản lý. Bạn có thể bắt đầu với tư cách là một Data Analyst trước khi thăng tiến lên nhà phân tích cấp cao, giám đốc phân tích, giám đốc phân tích hoặc thậm chí là giám đốc dữ liệu (CDO).
Mức lương của một Data Analyst sơ cấp tại Việt Nam rơi vào khoảng 10 triệu đồng/tháng. Đây là một mức lương khởi điểm tương đối cao so với mặt bằng chung. Không những thế, con số này có thể gia tăng nhanh chóng dựa trên kinh nghiệm và kỹ năng của bản thân.
Một Senior Data Analyst hoàn toàn có thể nhận mức lương từ 20 đến 40 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, bạn còn có thể linh động làm việc cho nhiều dự án khác nhau cùng một lúc. Điều này giúp nâng tổng thu nhập trong một tháng của một nhà phân tích dữ liệu lên rất cao và khó đo lường cụ thể.
Trong nguy cơ có cơ hội, để có thể theo đuổi ngành data và trở thành một data analyst bạn trau dồi nhiều kiến thức hơn nữa, vì công nghệ và kiến thức của ngành data là luôn luôn cập nhật, luôn luôn đổi mới.
Tham gia khóa học Phân tích Dữ liệu Kinh doanh (Business Intelligence/ Data Analytics) không chỉ dạy cách sử dụng tool và kiến thức hàn lâm. Khóa học này đào tạo cho học viên kỹ năng Data Analytics bài bản và chuyên nghiệp giúp bạn có thể phát triển bản thân và dễ dàng vượt qua những thử thách để tiến tới thành công.
Sau khóa học Business Intelligence tại Mastering Data Analytics, học viên thỏa điều kiện sẽ được gửi tặng khóa học tặng kèm (chuỗi video recording do chính Giảng viên biên soạn, có kèm theo Samples Data và Curriculum Slides) sau đây:
[3] Data Analyst (Business Intelligence) Khác Data Scientist (Business Analytics) Như Thế Nào?
[5] Học/làm phân tích dữ liệu với công nghệ nào thì “đúng trend”? – Mastering Data Analytics
[8] Doanh Nghiệp Cần Lưu Ý Điều Gì Để Các Dự Án Data Analytics Thành Công?
[12] Tự Học Data Analytics Với Kỹ Năng “Connecting The Dots”
Ngày càng có nhiều công ty chuyển sang sử dụng Big data và phân tích dữ liệu (Data Analytics) để mở đường và thứ họ cần là những chuyên gia dữ liệu có tay nghề cao để biến điều đó thành hiện thực.
Những vai trò thú vị này đòi hỏi phải được đào tạo và học hỏi liên tục, khiến nhiều người đã dần dần học hỏi và tìm hiểu về data để có mong muốn được chuyển ngành để chạy theo đam mê hoặc đáp ứng nhu cầu thị trường nghề nghiệp.
Vậy chúng ta sẽ gặp phải những thách thức cần vượt qua và những cơ hội nào cần nắm bắt khi bắt đầu chuyển ngành học data hay không?
Công cụ là phương thức để Data Analyst có thể chuyển hóa, xử lý hàng trăm cho đến hàng triệu cột dữ liệu dễ dàng hơn. Nhưng chắc chắn một điều rằng, công cụ vẫn mãi chỉ là công cụ, sẽ có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Nếu DA chỉ dừng lại ở việc biết các tác vụ của công cụ thì ai cũng đều giỏi và đều có thể làm phân tích số. Điều khác biệt lớn nhất chính là ở tư duy và kỹ năng giải quyết vấn đề. Có tư duy tốt, bạn sẽ biết vận dụng công cụ thông minh và từ đó, khai thác tối ưu được dữ liệu, phục vụ nhu cầu cho doanh nghiệp.
Nếu không giỏi thống kê cũng là 1 khó khăn đối với DA
“Mặc dù các con số không nói dối, nhưng trên thực tế, chúng có thể được sử dụng để đánh lừa với sự thật nửa vời. Điều này được gọi là “sử dụng sai số liệu thống kê”.
Đồng ý rằng, các công cụ như PowerBI, Tableau là “chiến thần” trong việc phân tích dữ liệu. Nhưng mọi thứ của chúng đã được thiết lập hoàn chỉnh, được tự động hóa với những chỉ số cố định, bảng dữ liệu phục vụ các bài toán được biết trước một định nghĩa trên các bảng điều khiển. Tuy nhiên, kết quả bạn nhận được sau khi phân tích vẫn có thể sai lệch nếu bạn lấy mẫu sai, bỏ qua đường cơ sở hoặc sử dụng dữ liệu không đủ mức độ tin cậy. Chính vì vậy, kỹ năng thống kê là cực kỳ quan trọng để tăng độ tin cậy cho dữ liệu bạn sử dụng.
Có thể nói, khả năng ngoại ngữ là điểm yếu của nhiều DA. Công việc không đòi hỏi bạn phải quá thông thạo nhưng ít nhất bạn phải có khả năng nghe, hiểu, giao tiếp trong công việc và có đủ vốn từ vựng chuyên ngành.
Học tập và làm việc trong ngành công nghệ thông tin thì bạn phải luôn sẵn sàng đối mặt với những căng thẳng. Dữ liệu và số là những đầu việc không hề dễ xử lý.
Bên cạnh đó, một trong những lo ngại lớn của Data Analyst là việc làm thêm giờ, hằng ngày đều có deadline cần xử lý,… Điều này cũng gây nên nhiều áp lực lên công việc của bạn.
Gia nhập WTO có thể coi là sự khởi đầu của một giai đoạn cải cách mới, toàn diện cả về kinh tế, pháp luật, hành chính, giáo dục, đào tạo, văn hóa. Quá trình phát triển sẽ năng động hơn, cơ cấu kinh tế sẽ phải điều chỉnh theo tín hiệu thị trường, kéo theo chuyển dịch về lao động, đào tạo. Về mặt nào đó, sự phát triển sôi động, với nhịp điệu cao hơn sẽ đem lại những cơ hội và cả những yếu tố bất định cao hơn. Rủi ro trong kinh doanh, trong đầu tư sẽ nhiều hơn và đòi hỏi năng lực dự báo, xử lý về chính sách và tình huống nhanh nhạy và quyết đoán hơn.
Gia nhập WTO không phải là mục đích tự thân, mà vào WTO chỉ là phương tiện để đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu cháy bỏng của dân tộc ta là phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chậm còn hơn không, song vì gia nhập sau nhiều nước, nên chúng ta đã phải chấp nhận những điều kiện khắt khe hơn Trung Quốc trước đây.
Là một nền kinh tế chuyển đổi, đang tiếp tục quá trình cải cách và xây dựng các thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp tục công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam là nước đi sau và xâm nhập thị trường thế giới khi sự phân chia thị trường đã “an bài”. Việc xuất hiện của Việt Nam trên thị trường quốc tế không phải là cuộc “múa võ vườn hoang” mà thực sự là vẽ lại bản đồ thị trường thế giới, giành giật thị phần từ những đối thủ khác như đã diễn ra đối với dệt may, da giày, gạo, cà phê v.v... Bên cạnh thuận lợi, quá trình này không phải lúc nào cũng “xuôi chèo mát mái”. Chính vì vậy, việc vào WTO là một điều tất yếu để giải quyết các vấn đề phát sinh trong khuôn khổ pháp lý và luật lệ chung, được thừa nhận.
Nếu như khi bắt đầu nộp đơn năm 1995 chúng ta đã đưa ra ngay những điều kiện gia nhập hiện thực hơn thì chắc đã được chấp nhận sớm hơn, với những điều kiện ít thắt buộc hơn so với những cam kết ngày nay.
Gia nhập WTO là cam kết tham gia vào kinh tế thị trường thế giới được điều tiết bằng những luật chơi rõ ràng, những định mức, tiêu chuẩn khắt khe, được tiếp cận với các thị trường rộng mở của 150 nước, chiếm phần lớn thương mại về hàng hóa và dịch vụ trên hành tinh này, Việt Nam vừa có quyền lợi vừa có nghĩa vụ, vừa có khó khăn, song đều đem lại những cơ hội và thách thức lớn.
Trở thành thành viên WTO, nước ta vừa có quyền lợi và nghĩa vụ. Quyền lợi là được tiếp cận với thị trường thế giới, được đối xử phù hợp với tư cách thành viên, được tiến hành xử lý các tranh chấp thương mại thông qua các cơ quan tài phán quốc tế của WTO (chứ không còn bị áp đặt những bản án được thực hiện trên luật quốc gia như trước đây đối với cá ba sa).
Nghĩa vụ là phải tuân thủ các luật lệ, cam kết về không phân biệt đối xử, giảm thuế, mở cửa thị trường, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, các tiêu chuẩn về lao động và cam kết xã hội v.v... Đó là những yêu cầu cao, mới mà cả nước ta, từ quan chức, doanh nghiệp đến các trường đại học, viện nghiên cứu và mỗi người dân của nước ta đều phải phấn đấu thực hiện.
Nếu không thực hiện đúng các nghĩa vụ thì quyền lợi cũng không dễ dàng gì thực thi được, vì vi phạm sẽ bị kiện tụng, tranh chấp và làm giảm uy tín của nước ta.
Mặc dầu đã được tự do hóa và có khá nhiều quy định quốc tế, thương mại vẫn là con đường hai chiều, có đi có lại và vẫn là công cụ của chính trị của các quốc gia. Gia nhập WTO để có khung pháp luật, có tư cách bình đẳng, còn việc buôn bán vẫn phải tiến hành qua quan hệ song phương. Chính vì vậy mà gần đây các Hiệp định thương mại tự do (FTA) ngày càng được thương thuyết và ký kết nhiều hơn, nhất là giữa các nước thành viên WTO và đã phát triển. Vì vậy, sau khi vào WTO, chúng ta vẫn phải rất coi trọng phát triển các quan hệ kinh tế song phương, ký kết các Hiệp định thương mại tự do song phương, có thể với các điều kiện WTO+ (tức là những điều kiện vượt khỏi những cam kết đã chấp nhận khi vào WTO) với những đối tác chọn lọc, có trình độ phát triển cao hơn, cơ cấu kinh tế khác hơn và khả năng bổ sung giữa hai nền kinh tế lớn hơn.
Gia nhập WTO, Việt Nam có những thuận lợi cơ bản. Đó là quyết tâm chính trị cải cách, hội nhập, sự đồng thuận của dân tộc trong công cuộc canh tân đất nước, đó là những cơ sở kinh tế - xã hội, thể chế, giáo dục v.v... của hai mươi năm đổi mới, tăng trưởng và phát triển.
Hội nhập quốc tế là hội nhập theo cơ chế thị trường, sau hai mươi năm đổi mới, các thể chế kinh tế thị trường đã cơ bản được hình thành. Trên những nét đại quát, kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việt Nam có vị trí chiến lược trong khu vực, có thể phát huy để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư. Khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, tiến trình toàn cầu hóa đang tiếp tục được đẩy mạnh. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương trở thành động lực tăng trưởng và là một trong những trung tâm tăng trưởng năng động nhất của nền kinh tế toàn cầu.
Trình độ phát triển thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém v.v... có thể vừa là khó khăn, vừa là cơ hội. Với “lợi thế của người đi sau”, Việt Nam có thể hợp tác, kêu gọi đầu tư để nhanh chóng phát triển cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật. Vì vậy, khó khăn đó có phương án giải quyết hiện thực.
Khó khăn về trình độ phát triển thể hiện rõ ở khu vực nông nghiệp, kinh tế gia đình nhỏ lẻ, ở sự thiếu hiểu biết và thiếu chuẩn bị để cạnh tranh và phát triển trong hoàn cảnh mới.
Với tỷ trọng nông nghiệp còn khá cao (20% GDP) và dân số ở nông thôn lên đến 65 - 66% dân số, đất canh tác bình quân thấp và manh mún, chia thành 78 triệu thửa ruộng, trình độ chuyên canh, vận dụng khoa học - công nghệ chưa cao, gia nhập WTO đặt ra nhiều cơ hội và thách thức rất lớn đối với nông dân.
Hệ thống an toàn xã hội, bảo hiểm còn kém phát triển, rất cần phải cải cách và phát triển để đáp ứng nhu cầu của những biến động về kinh tế và xã hội.
Khó khăn lớn nhất thuộc về tư duy phát triển, tư duy kinh doanh, trình độ phát triển của thể chế kinh tế thị trường và bộ máy Nhà nước. Đây là những khó khăn và trở ngại thực sự mà chỉ có người Việt Nam mới có thể tự vượt qua được, không có nhà đầu tư, tín dụng hay viện trợ phát triển nào có thể thay đổi được. Chúng ta sẽ tiếp tục đề cập đến những vấn đề đó trong phần sau.
Cơ hội lớn nhất là đẩy mạnh mạnh mẽ và toàn diện cải cách, đổi mới tư duy, vươn lên mạnh mẽ hơn, chấp nhận cuộc cạnh tranh toàn cầu, phát huy lợi thế cạnh tranh để tăng trưởng và phát triển có chất lượng cao và tốc độ nhanh hơn. Cơ hội cũng là nhận thức được tính bất hợp pháp và lỗi thời của nhiều thói quen làm ăn cũ, là từ bỏ những cách làm mang tính chụp giật, ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước, dựa vào quan hệ chính trị để kiếm lợi nhuận siêu ngạch, là từ bỏ cách kinh doanh theo kiểu nhồi bánh đúc để tăng trọng trước khi bán vịt, tiêm hóa chất vào tôm, cân, đong thiếu, bán xăng pha axeton mà không cho khách hàng biết v.v... Đó là cơ hội từ bỏ những cách làm cũ, lạc hậu và đi vào kinh doanh văn minh. Phải nói ngay rằng việc từ bỏ các nguồn lợi siêu ngạch đó là hoàn toàn không dễ dàng. Song, nếu không từ bỏ thì doanh nghiệp sớm hay muộn sẽ bị trả giá. Xin lưu ý rằng như vụ ông Bửu Huy cho thấy, kinh doanh ở Việt Nam, tư cách pháp nhân Việt Nam, nhưng xuất khẩu sang Mỹ, hoàn toàn có thể bị các cơ quan điều tra Mỹ phát lệnh truy nã về những điều mà họ coi là vi phạm.
Cơ hội cũng mở ra đối với toàn dân Việt Nam với tư cách là người tiêu dùng: được tiếp cận với những hàng hóa và dịch vụ đa dạng hơn, giá sẽ giảm đi theo mức giảm thuế và mức độ cạnh tranh, tiến bộ khoa học - công nghệ sẽ được đẩy mạnh. Thanh niên sẽ là lớp người có lợi nhất vì có nhiều cơ hội hơn trong tìm kiếm cơ hội học tập, làm việc trong nước và ngoài nước. Họ là lớp người nhanh chóng nhất thích nghi với những thay đổi, tiếp thu những thành tựu mới của nền văn minh nhân loại khi nước ta mở cửa mạnh mẽ hơn.
Cơ hội cũng là sự mở rộng tầm mắt, vươn ra tới các nền văn minh khác, vừa tiếp thu các thành tựu của các nền văn minh khác, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thông văn hóa dân tộc, như rèn đúc ý chí vươn lên, tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, coi thất bại là cơ hội để hoàn thiện, rút kinh nghiệm, học tập không ngừng từ thực tiễn kinh doanh, từ đối thủ cạnh tranh. Tôn trọng đối tác và cũng đòi hỏi đối tác tôn trọng mình cũng là một thái độ có văn hóa.
Thách thức là phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh hơn ngay trên thị trường trong nước, tuân thủ những quy định khắt khe và cao hơn so với trước đây. Cơ hội và thách thức không tĩnh tại và nhất thành bất biến, không đồng đều cho mọi ngành, mọi địa phương mà là tương quan động, cơ hội và thách thức có thể chuyển hóa cho nhau. Càng chủ động, quyết tâm học hỏi, cải cách, phát huy từ lợi thế thì cơ hội càng lớn và thách thức càng giảm đi. Ngược lại, thụ động, không chịu đổi mới tư duy, không biết người, biết mình, thì cơ hội hiển nhiên cũng không nắm bắt được mà thách thức sẽ ngày càng lớn và dồn dập hơn. Thắng, thua trước hết tại mình chứ không phải tại WTO vì cho đến nay, chưa có nước nào phải nạp đơn xin rút lui khỏi tổ chức này. Vì vậy, hơn bao giờ hết phải rất bình tĩnh, tỉnh táo phân tích những cơ hội, thách thức, nhất thiết không được hốt hoảng, mất bình tĩnh.
Mặc dầu đã tăng trưởng và đạt được những tiến bộ đáng kể trong hai thập niên vừa qua, song tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng còn dưới tiềm năng của đất nước và dưới yêu cầu. Với 84 triệu dân, xếp thứ 12 trên thế giới, GDP của nước ta năm 2006 dự đoán có thể đạt khoảng 60 tỷ US$, so với tổng GDP của 179 nền kinh tế (43,920 ngàn tỷ US$ năm 2005, theo IMF) chỉ bằng 0,12% GDP của toàn thế giới, xuất khẩu của nước ta chiếm khoảng 0,4% trong tổng xuất khẩu toàn cầu. Mặc dầu đã có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cà phê, dầu thô, dệt may v.v... nhưng chưa mặt hàng nào của nước ta có tỷ trọng vượt 8% tổng lượng xuất khẩu thế giới, tức là vị trí của chúng ta trên thế giới này về kinh tế còn khiêm tốn. Trên thị trường, cạnh tranh do doanh nghiệp đảm nhận, Nhà nước chỉ tạo điều kiện để doanh nghiệp kinh doanh. Và chỉ có doanh nghiệp (và nông dân) mới tạo ra giá trị mới, một nền kinh tế muốn có quy mô lớn và năng lực cạnh tranh cao phải có nhiều doanh nghiệp mạnh. Với 84 triệu dân nước ta mới có khoảng 250.000 doanh nghiệp được đăng ký, gần đạt 0,3 doanh nghiệp trên 100 dân, hay ngược lại cứ 336 người mới có một doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp trên đầu người dân còn quá thấp so với các nền kinh tế thị trường khác. Và ngay những tập đoàn doanh nghiệp nhà nước lớn nhất vừa được thành lập theo quyết định hành chính của nước ta cũng chưa có giá trị trên hành tinh này. Phần lớn doanh nghiệp nước ta còn non trẻ, thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa so với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Doanh nhân có tinh thần kinh doanh vượt khó, song cần tích lũy thêm kinh nghiệm, học hỏi nhiều mặt để có thể vượt lên trong cuộc cạnh tranh toàn cầu này.
Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam năm 2005 được xếp thứ 81 trên 117 nền kinh tế. Về hệ thống tài chính - ngân hàng, một bộ phận then chốt của nền kinh tế, độ sâu tài chính tức tỷ lệ M2 trên GDP, được khoảng 84% GDP, có khoảng 6 triệu tài khoản trên con số 84 triệu dân, thị trường chứng khoán mới có quy mô khoảng 6% GDP và chưa qua giai đoạn thí điểm, kiện toàn, mới có khoảng 5% dân số tham gia bảo hiểm với tổng doanh số bảo hiểm mới đạt khoảng 4-5% GDP. Chưa nói đến công nghệ, các tiêu chuẩn Basel của hệ thống ngân hàng, số lượng dịch vụ mà các ngân hàng thương mại có thể thực hiện, tỷ lệ nợ xấu v.v... ta có thể thấy khoảng cách và cũng là dư địa để phát triển của nước ta lớn đến chừng nào.
Môi trường kinh doanh tuy có cải thiện, song chi phí kinh doanh về thời gian và tiền bạc còn cao hơn so với khu vực. Chu chuyển một container hàng ở cảng Singapore chỉ mất 10 phút, ở cảng Việt Nam mất 7 ngày là một ví dụ có tính điển hình cho khoảng cách này. Nạn quan liêu, tham nhũng còn nặng nề, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Về khía cạnh văn hóa của các quan chức nhà nước, đó là những tệ nạn phải khắc phục.
Gia nhập WTO, hợp tác và cạnh tranh với thế giới, rất cần một cuộc “tổng kiểm tra sức khỏe” của tất cả các ngành, các tỉnh, thành phố, của mỗi một doanh nghiệp, của từng sản phẩm, dịch vụ để biết ta đang ở đâu trên bản đồ thế giới, mặt mạnh, mặt yếu, cơ hội và thách thức ở đâu. Giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, hệ thống an sinh xã hội, nguồn nhân lực, bộ máy Nhà nước, và hệ thống chính trị, luật pháp, tòa án v.v... tất cả đều cần một sự đánh giá cầu thị, khách quan, chính xác, đối chiếu với các cam kết và yêu cầu của WTO để “biết người, biết mình” cho cuộc hội nhập này. Và thay vì tiếp tục xây dựng kế hoạch theo cách truyền thống, xuất phát từ cái gì hiện có, chúng ta phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các nhà đầu tư tiềm tàng và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng để có quyết sách phù hợp với cơ hội và thách thức, tức là có lợi nhất cho đất nước. Có như vậy, chúng ta mới có chiến lược, chiến thuật đúng đắn trong cuộc cạnh tranh và hợp tác mới này.
Lạc hậu nói về khoảng cách về phát triển, về thời gian, tốc độ cần thiết để đuổi kịp, nhưng lạc lõng lại là nguy cơ lớn hơn và đáng nói hơn, vì lạc lõng là theo đuổi một hướng khác, cách làm khác so với thông lệ của thế giới. Biết rõ khoảng cách, chỗ mạnh, chỗ yếu ta có thể có cách đi, có chính sách huy động mọi nguồn lực để rút ngắn khoảng cách. Lạc lõng là nói đến cách nghĩ, cách làm không phù hợp với thời đại và luật chơi của WTO. Chỉ riêng mình làm theo cách “khôn nhà dại chợ” như nông dân tiêm hóa chất vào tôm cho nặng cân, doanh nghiệp vi phạm các quy định về xuất xứ hàng hóa, không tôn trọng các quy định về chất lượng, buôn lậu, trốn thuế, quan chức quyết định đầu tư, ưu đãi qua quan hệ thân quen chứ không theo luật pháp v.v... sẽ không đem lại lợi ích chân chính nào cho doanh nghiệp và cho đất nước. Với cách làm lạc lõng như vậy thì lạc hậu càng xa và học phí nhập cuộc càng lớn.
WTO cũng nhanh chóng làm rõ những lĩnh vực chúng ta lạc hậu và lạc lõng theo những thành kiến trước đây như coi nhẹ lao động trí óc, vai trò của dịch vụ trí tuệ, chỉ coi lao động chân tay, cơ bắp mới là lao động tạo ra của cải, cách “nói một đằng, làm một nẻo”, quan chức nhà nước không thực hiện đúng luật pháp mà hành động theo lợi ích ngầm v.v...
Phải nói rõ rằng, với nếp suy nghĩ và cách làm như vậy, với tư cách là thành viên WTO, ta chỉ tự gây khó cho mình chứ không qua mặt được thiên hạ. Rất tiếc rằng, cho đến nay, đối với không ít doanh nghiệp và nông dân, cách làm đó vẫn là thói quen khó từ bỏ. Song, từ bỏ những nếp nghĩ, cách làm như vậy là bước tất yếu để trở thành một nền doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học - công nghệ, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu hiện đại.
Văn hóa của doanh nhân trước hết là biết cạnh tranh theo pháp luật, biết đầu tư vào nguồn nhân lực, khoa học - công nghệ để vươn lên, vừa thu được lợi nhuận, vừa đem lại lợi ích cho khách hàng. Văn hóa cũng là tuân thủ pháp luật của nước mình và cũng phải tuân thủ các cam kết của WTO. Hơn thế nữa, kinh doanh với các nền văn hóa khác nhau, doanh nhân nước ta cũng phải hiểu các nền văn hóa khác, không dùng thịt bò khi bán sang những khách hàng theo Ân giáo và không dùng thịt heo khi xuất hàng cho các nước Hồi giáo và v.v...
Hy vọng rằng, trở thành thành viên WTO sẽ giúp thúc đẩy cải cách toàn diện và tạo đà cho sự phát triển ở nước ta mạnh mẽ hơn. Đối với doanh nhân, đó là cơ hội để tự đổi mới mình, vươn lên mạnh mẽ hơn nữa, đóng góp nhiều hơn cho tiến bộ xã hội và hưng thịnh của dân tộc, đồng thời cũng đại diện cho đất nước trên thị trường thế giới.
*. Báo cáo này đã được trình bày tại Hội nghị “Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới: Thuận lợi, thách thức và vai trò của Quốc hội” (Hà Nội, 1314/11/2006)
Cộng đồng kinh tế ASEAN - tiềm năng phát triển Từ năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã hoạch định tầm nhìn ASEAN 2020 bao gồm ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Năm 2007, một lần nữa các nhà lãnh đạo nhấn mạnh lại cam kết này, đồng thời quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Đặc biệt, các nhà lãnh đạo ASEAN đã đồng ý rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua Kế hoạch hành động AEC và thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Theo định hướng, AEC sẽ là một khu vực kinh tế ổn định, thịnh vượng, có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển thông thoáng, kinh tế phát triển đồng đều, nghèo đói và phân hóa kinh tế - xã hội giảm bớt. Cộng đồng kinh tế là xu hướng liên kết khu vực hiện nay của các nhóm nước ở nhiều khu vực trên thế giới, như Cộng đồng châu Âu, Cộng đồng các quốc gia độc lập… Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập nhằm tạo dựng một thị trường thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN, thúc đẩy dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong ASEAN. Mục tiêu của Cộng đồng Kinh tế ASEAN là thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có năng lực cạnh tranh cao mà với năng lực cạnh tranh này, ASEAN có thể hội nhập đầy đủ và vững chắc vào nền kinh tế toàn cầu. Cộng đồng Kinh tế ASEAN được kỳ vọng là cộng đồng năng động, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu với GDP bình quân hằng năm ước đạt 2.000 tỷ USD và sẽ tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới. Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), kinh tế Việt nam có cơ hội tăng trưởng thêm 14,5% vào năm 2025. Cộng đồng Kinh tế ASEAN bao gồm 10 quốc gia với dân số hơn 620 triệu người, trong đó 300 triệu người tham gia lực lượng lao động. Ba quốc gia có số lao động chiếm tỷ trọng hơn 70% là In-đô-nê-xi-a (40%), Phi-líp-pin (16%) và Việt Nam (15%). Lực lượng lao động này khi được “giải phóng”, được tự do di chuyển trong thị trường chung sẽ là nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Trước mắt, trong năm 2015 có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề), trong đó có nhân lực được đào tạo chuyên môn hoặc có trình độ từ đại học trở lên, thông thạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, được di chuyển tự do hơn.Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN giúp thị trường lao động trong ASEAN sôi động hơn, thúc đẩy tạo việc làm cho từng quốc gia thành viên. Cũng theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), khi tham gia AEC, số việc làm của Việt Nam sẽ tăng lên 14,5% vào năm 2025. Tuy nhiên, do trình độ phát triển không đồng đều, nên hiện nay, lao động có tay nghề và kỹ năng cao trong khối ASEAN chủ yếu di chuyển vào thị trường Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a và Thái Lan. Còn lại, hầu hết các lao động di chuyển trong phạm vi ASEAN là lao động trình độ kỹ năng thấp hoặc không có kỹ năng. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN do ILO thực hiện cho thấy, doanh nghiệp trong khối ASEAN hiện đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và kỹ năng trước sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015; gần 50% chủ sử dụng lao động trong khối ASEAN trong cuộc khảo sát cho biết, người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần; cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng có ích nhưng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng)... Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam Khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam có những lợi thế nhất định, nhưng đồng thời có những hạn chế, những thách thức không nhỏ. Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là có lực lượng lao động dồi dào và cơ cấu lao động trẻ. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến giữa năm 2014, quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 47,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng 20,8%; khu vực dịch vụ là 32,1%. Chất lượng lao động cũng đã từng bước được nâng lên; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 30% lên 40% trong vòng 10 năm trở lại đây (theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 30%. Lao động qua đào tạo đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị trường lao động. Lực lượng lao động kỹ thuật của Việt Nam đã làm chủ được khoa học - công nghệ, đảm nhận được hầu hết các vị trí công việc phức tạp trong sản xuất kinh doanh mà trước đây phải thuê chuyên gia nước ngoài.Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp, do vậy, tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%. Chất lượng và cơ cấu lao động vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu như chưa qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực nước ta còn thấp, là một trong những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (năm 2012), lao động phổ thông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 83,28% tổng số lao động; lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm tỷ lệ 4,84%; lao động có trình độ trung cấp chuyên nghiệp là 3,61% và lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 8,26%. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lao động qua đào tạo nghề (gồm cả dạy nghề chính quy và thường xuyên, phi chính quy, dạy nghề dưới 3 tháng và dạy nghề tại doanh nghiệp) chiếm khoảng 34% tổng số lao động trong cả nước. Trên thực tế, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và có khoảng cách khá lớn so với các nước trong khu vực. Ngân hàng Thế giới đánh giá Việt Nam đang thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Ma-lai-xi-a đạt 5,59 điểm... Do vậy nên năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp ở châu Á - Thái Bình Dương (thấp hơn Xin-ga-po gần 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần). Năng suất lao động của Việt Nam bằng 1/5 Ma-lai-xi-a và 2/5 Thái Lan. Trong giai đoạn 2002 - 2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2% mỗi năm. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hằng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%. Việt Nam còn thiếu nhiều lao động lành nghề, nhân lực qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của trị trường lao động và doanh nghiệp về tay nghề và các kỹ năng mềm khác. Trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam chưa cao nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập. Những hạn chế, yếu kém của nguồn nhân lực là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (năm 2011, Việt Nam xếp thứ 65/141 nước được xếp hạng về năng lực cạnh tranh). Nguyên nhân chủ yếu của hiện trạng chất lượng nguồn nhân lực thấp là do công tác đào tạo hiện nay chưa phù hợp, chất lượng đào tạo còn hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu sử dụng nhân lực và nhu cầu của người học, chưa theo kịp sự chuyển biến của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, giữa dạy chữ với dạy người, dạy nghề,…Mặt khác, hệ thống thông tin của thị trường lao động Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém và hạn chế, như bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung - cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Ngoài ra, còn thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo.Giải pháp cho phát triểnTăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào những lợi thế không căn bản (như xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, sử dụng công nghệ lạc hậu, lao động giá rẻ...) là sự tăng trưởng không bền vững. Khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, công nghệ sản xuất lạc hậu và năng lực tài chính không đủ để đổi mới công nghệ và thiết bị, không có sự chuẩn bị tốt về nguồn nhân lực có kỹ năng, tất cả các yếu tố trên sẽ trở thành lực cản lớn cho sự phát triển. Việc sử dụng nhân công giá rẻ với năng suất lao động thấp sẽ dẫn đến tình trạng người lao động không có thời gian để đào tạo lại và nâng cao trình độ để đáp ứng được những đòi hỏi mới của công nghệ hiện đại; khi đó, nền kinh tế rơi vào vòng luẩn quẩn, thậm chí có thể suy thoái, mất cân đối trầm trọng về các yếu tố đầu vào có chất lượng cho sản xuất. Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) từng khuyến cáo rằng Việt Nam cần dành sự đầu tư lớn hơn để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, vì đây là yếu tố then chốt đưa Việt Nam vượt khỏi ngưỡng nước có thu nhập trung bình trong những năm tới. Đầu tư mạnh mẽ cho phát triển lực lượng lao động có kỹ năng thông qua nâng cao chất lượng đào tạo nghề, cùng với cơ chế, chính sách sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chính là chìa khóa để Việt Nam vượt qua “bẫy thu nhập trung bình” thành công và trở thành nước có thu nhập cao trong thời gian sớm hơn dự báo là năm 2058.Để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt Nam, nhất là khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào năm 2015, cần phải đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo, trong đó có đào tạo nghề ở nước ta với một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của dạy nghề trong chiến lược phát triển nhân lực của đất nước thời kỳ 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư đào tạo nghề trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, vùng, ngành. Hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội. Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy nghề, học nghề; sửa Luật Dạy nghề và các quy định liên quan. Có cơ chế để cơ sở dạy nghề là một chủ thể độc lập, tự chủ. Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên dạy nghề; chính sách đối với người đứng đầu cơ sở dạy nghề, người lao động qua đào tạo nghề; chính sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề. Xây dựng cơ chế để các doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động tham gia xây dựng, đánh giá, điều chỉnh chương trình đào tạo, hướng dẫn thực hành và đánh giá năng lực người học, hướng tới doanh nghiệp phải là một trong những chủ thể đào tạo nghề. Đổi mới chính sách tài chính về dạy nghề; đẩy mạnh xã hội hóa, đa dạng nguồn lực cho phát triển dạy nghề; khuyến khích hợp tác và thành lập các cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các cơ sở dạy nghề chuyên biệt đối với người khuyết tật, người dân tộc thiểu số. Thứ ba, đổi mới cơ cấu dạy nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân. Chuyển hệ thống dạy nghề khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh hoạt, liên thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông với các bậc học khác. Đổi mới cơ cấu hệ thống dạy nghề trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề phù hợp với đất nước, xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp gồm ba cấp trình độ là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, trên cơ sở sáp nhập trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp; cao đẳng nghề và cao đẳng.Thứ tư, tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề, bao gồm phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và quốc tế). Phát triển chương trình đào tạo phù hợp với công nghệ sản xuất hiện đại theo hướng mở, linh hoạt, thích hợp với các cấp và trình độ đào tạo nghề; áp dụng một số chương trình đào tạo của các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Thực hiện kiểm định cơ sở dạy nghề và chương trình; xây dựng và ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động; ban hành các tiêu chuẩn về cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề cho từng nghề ở từng cấp độ.Thứ năm, đổi mới hoạt động đào tạo; chuyển chương trình dạy nghề từ chủ yếu trang bị kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học; đa dạng hóa nội dung dạy nghề theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, thái độ, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học. Các cơ sở dạy nghề tự chịu trách nhiệm về các hoạt động đào tạo từ việc chủ động trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo trên cơ sở khung chương trình; xây dựng kế hoạch đào tạo, đánh giá kết quả đào tạo trên cơ sở có sự tham gia của doanh nghiệp; bảo đảm chất lượng đào tạo; bảo đảm chuẩn hoá “đầu vào”, “đầu ra”; tự kiểm định chất lượng đào tạo và chịu sự đánh giá định kỳ của các cơ quan kiểm định chất lượng của Nhà nước. Đổi mới quản lý quá trình dạy và học, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả dạy nghề trên cơ sở chú trọng đánh giá việc hiểu, vận dụng kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, có sự tham gia của doanh nghiệp hoặc đại diện sử dụng lao động. Thứ sáu, gắn kết giữa dạy nghề với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động. Xây dựng các mối quan hệ chặt chẽ giữa dạy nghề với trị trường lao động, hướng vào việc đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, từng ngành, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Hình thành các đơn vị quan hệ trường - ngành trong các cơ sở dạy nghề. Doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào các hoạt động đào tạo nghề như xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề, xác định danh mục nghề, xây dựng chương trình đào tạo, đánh giá kết quả học tập của người học nghề… Doanh nghiệp có trách nhiệm cung cấp thông tin cho các cơ sở dạy nghề về nhu cầu việc làm và các chế độ cho người lao động; phản hồi cho cơ sở dạy nghề về trình độ của người lao động. Các cơ sở dạy nghề tổ chức theo dõi, thu thập thông tin về học sinh học nghề sau khi tốt nghiệp; có trách nhiệm tiếp nhận các thông tin từ phía doanh nghiệp và thay đổi để thích ứng với nhu cầu của doanh nghiệp.Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về dạy nghề, nhất là với những nước thành công trong phát triển dạy nghề ở khu vực ASEAN và trên thế giới. Tích cực vận động, thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA cho dạy nghề. Hợp tác với các nước ASEAN để tiến tới công nhận kỹ năng nghề giữa các nước, hướng tới Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, tích cực tham gia vào các hoạt động của khu vực và thế giới để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, như tham gia Hội thi tay nghề ASEAN, Hội thi tay nghề thế giới.../.
Trong số 148 thành viên của WTO có khoảng ba phần tư là các nước đang phát triển, kém phát triển và đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Những quốc gia này ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, và việc xúc tiến thương mại quốc tế như một giải pháp sống còn trong nỗ lực phát triển đất nước. Ðối với các nước đang phát triển, cần có cách nhìn nhận và áp dụng những quy chế hoàn toàn khác biệt so với các nước phát triển. Do đó, trong quy chế của WTO, tại Chương 6 có những quy định dành riêng cho các nước đang phát triển, với cơ chế "thời gian thoáng hơn, điều kiện tốt hơn". Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, với thu nhập bình quân tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp. Mặc dù đã có những bước tăng trưởng vượt bậc trong những năm qua, nhưng đến nay nước ta vẫn là một nước có nền kinh tế chưa phát triển, cơ cấu các ngành nghề chưa cân đối, tỷ trọng nhập khẩu quá lớn so với xuất khẩu... Việc gia nhập WTO là một trong những nỗ lực nhằm tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thương mại quốc tế, tạo tiền đề hội nhập và phát triển nền kinh tế. Gia nhập WTO nghĩa là gia nhập thị trường thương mại toàn cầu, với hành lang pháp lý là Quy chế WTO và những hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết với các nước thành viên WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển. Những lợi ích này được nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau, như về phía Nhà nước, về phía các doanh nghiệp, về phía người tiêu dùng, nhưng có thể tổng hợp lại ở những lợi ích chủ yếu như sau:
Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khi chưa gia nhập WTO, với nền kinh tế mở cửa, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới. Trong mối quan hệ thương mại này, nước ta với lợi thế là nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tay nghề cao, chiếm ưu thế trong gia công sản phẩm xuất khẩu. Nhưng trong những mối quan hệ thương mại quốc tế thì vẫn là nước chịu nhiều thiệt thòi do chưa thiết lập được hiệp định thương mại song phương và đa phương với những đối tác của mình, đặc biệt là những thị trường lớn như thị trường mậu dịch tự do Bắc Mỹ, thị trường mậu dịch tự do EU. Một minh chứng điển hình là việc xuất khẩu cá da trơn (cá tra, cá ba sa), tôm vào thị trường Mỹ, giày, dép vào thị trường EU. Với giá xuất khẩu rẻ, các doanh nghiệp Việt Nam bị các nước này áp đặt là bán phá giá. Các quốc gia này đã "bảo vệ sản xuất trong nước", bằng cách áp dụng chính sách bảo hộ thông qua đánh thuế nhập khẩu rất cao, gây rất nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Khi tham gia WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả các quốc gia đó. Hàng hóa có thể thâm nhập thị trường khổng lồ này mà không gặp bất cứ trở ngại nào, miễn là không vi phạm những quy chế và cam kết đã ký, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa cùng loại và hàng hóa thay thế.
Thứ hai, tham gia WTO sẽ nâng cao khả năng tiếp cận những công nghệ tiên tiến, những thị trường tài chính hàng đầu, tiếp thụ và vận dụng cho chiến lược phát triển. Thành viên WTO có những quốc gia là những nền kinh tế hàng đầu với công nghệ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế, hệ thống tài chính, tiền tệ phát triển ở trình độ cao. Gia nhập WTO chúng ta sẽ có khả năng tiếp nhận những công nghệ mới, tiếp thụ và ứng dụng vào sản xuất, điều hành, quản lý, rút ngắn khoảng cách giữa các nước thành viên WTO; đồng thời tiếp nhận được nguồn nhân lực và vật lực lớn từ những nước này. Bên cạnh đó, WTO còn có những chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển: hỗ trợ về kỹ thuật và đào tạo; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết những vướng mắc trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế; tạo cơ hội cho những nước đang phát triển mở rộng thị trường thương mại quốc tế thông qua việc thâm nhập những thị trường lớn như dệt may, dịch vụ; yêu cầu các nước thành viên WTO phải bảo vệ lợi ích của những nước đang phát triển nếu các nước này áp dụng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hoặc những chính sách đối ngoại như chống bán phá giá, áp dụng những rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế.
Thứ ba, tham gia WTO, vị thế của Việt Nam sẽ được nâng cao trong các mối quan hệ quốc tế; tạo nên thế và lực mới, sánh ngang hàng với các quốc gia thành viên của WTO trong việc biểu quyết những vấn đề liên quan đến WTO, đặc biệt trong quá trình giải quyết những vấn đề tranh chấp trong kinh doanh thương mại quốc tế.
Thứ tư, tham gia WTO góp phần cải thiện mức sống người dân. Cùng với việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ là một bộ phận của thị trường toàn cầu. Luồng hàng hóa sẽ được chu chuyển qua thị trường Việt Nam cũng như tất cả các thị trường khác. Hàng hóa các nước khác sẽ thâm nhập thị trường Việt Nam. Ðể đủ sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, áp dụng công nghệ mới... Ðiều này sẽ khiến người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi, vì cùng một mức thu nhập, họ có nhiều sự lựa chọn hơn với những hàng hóa được sử dụng, và đương nhiên là mức sống được nâng cao. Thị trường ô-tô là một thí dụ dễ thấy. Khi bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan và giải pháp cấm nhập khẩu, giá ô-tô trong nước rất cao, gấp hai đến ba lần các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thứ năm, gia nhập WTO là cơ hội để Chính phủ có thể xem xét những chính sách kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Ðây là cơ hội để Chính phủ hoàn thiện các chính sách kinh tế, tham khảo và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, đồng thời tuân thủ quy chế WTO sẽ giảm bớt hiện tượng tham nhũng, hối lộ trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước. Với tiêu chí tự do hóa thương mại, WTO kiên quyết xóa bỏ những rào cản bất hợp lý trong thương mại quốc tế, trong đó, các nước thành viên đều phải tuân theo. Những rào cản này có thể là chế độ hạn ngạch, chính sách cấm xuất, nhập khẩu, bảo hộ thuế quan. Ðây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng như mua bán hạn ngạch, gian lận thuế, gian lận thương mại, làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Xóa bỏ rào cản chính là xóa bỏ những tiền đề nảy sinh tham nhũng, hối lộ, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ.
Một là, thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh tranh chưa cao. Mở cửa thị trường, cùng với cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời gian qua, nhưng nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Ở nhiều doanh nghiệp, tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn lớn, sản phẩm sản xuất trên nền tảng CNH, HÐH, nên chất lượng và giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh nghiệm chiếm lĩnh thị trường của những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Sự cạnh tranh này khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn :
- Chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học - kỹ thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại, chiếm lĩnh được thị trường, hướng tới xuất khẩu và dần tạo uy thế trên thị trường.
- Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, bị đào thải khỏi thị trường. Ðiều này có thể xảy ra với những doanh nghiệp quá yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu, kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Sự đào thải của hàng loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến số lao động thất nghiệp tăng cao. Ðây là một trong những vấn đề cần giải quyết nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững.
Hai là, thách thức đối với nước ta là phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã ký từ những hiệp định thương mại song phương, đa phương, đồng thời tuân thủ triệt để quy chế WTO.
Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới, cùng quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã khẳng định sự đúng đắn của con đường phát triển đất nước ta. Khai thác triệt để những lợi thế và chủ động vượt qua những thách thức khi gia nhập WTO là tiền đề quan trọng trong việc hội nhập thị trường toàn cầu, dần thích nghi và bắt kịp tốc độ phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, các văn bản luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là những lĩnh vực có liên quan đến những cam kết và thỏa thuận theo hiệp định thương mại song phương, đa phương và quy chế WTO đề ra. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN, chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những ngành mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc những ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành "đầu tầu" của nền kinh tế. Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, hoặc làm ăn không hiệu quả cần được chuyển đổi hoặc bán, bảo đảm cho mọi nguồn lực kinh tế được đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Những thị trường hỗ trợ cho thị trường hàng hóa như thị trường tài chính, thị trường tiền tệ cần được quan tâm phát triển một cách đồng bộ. Ðồng thời, Nhà nước cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị cho quá trình tiếp thụ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa sau này.
Về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường toàn cầu, trong đó, hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế trong kinh doanh thương mại quốc tế, như vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh an toàn, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng... Cũng cần chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực với trình độ cao, nhằm tiếp thụ những công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán hàng, để hàng hóa Việt Nam có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.
Cơ hội và thách thức của VN khi gia nhập WTO
Ngày hôm nay, 7/11 Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhân dịp này Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết đăng trên website Chính phủ phân tích những cơ hội và thách thức của đất nước khi tham gia vào tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu này.
Về những cơ hội, Thủ tướng nêu năm vấn đề chính:
Một là: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ hơn, có hiệu quả hơn.Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.Về những thách thức, Thủ tướng nhấn mạnh bốn vấn đề lớn.
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển". Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ. Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.Thủ tướng nêu rõ: Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất. Thủ tướng cũng bảy tỏ tin tưởng: "Với thành tựu to lớn sau 20 năm Đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia nhập WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta"./.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đây là một sự kiện quan trọng, mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức mà Việt Nam cần phải vượt qua. Hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu của thời đại ngày nay, chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư và tiêu thụ sản phẩm. Mở cửa hội nhập không chỉ là để các doanh nghiệp của Việt Nam vươn ra thị trường thế giới, mà còn để các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất vào Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã hội nhập kinh tế từ rất lâu, nhưng vẫn ở mức độ thấp, nền kinh tế Việt Nam đã tham gia vào AFTA, ASEAN nhưng sự tham gia đó vẫn ở phạm vi hẹp cả về qui mô và khối lượng. Về lĩnh vực thương mại, hơn 20 mươi năm qua, hoạt động thương mại của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội. Một số đặc điểm cơ bản của hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn 1986-2005 là 21,2% cao gần gấp 2 lần tăng trưởng GDP. Xuất khẩu của Việt Nam đã vượt ngưỡng 10 tỷ USD vào năm 1999 và hiện nay Việt Nam là nước có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 6 trong khối ASEAN, kim ngạch chiếm 0,3% so với tổng xuất khẩu của thế giới. Cơ cấu hàng xuất khẩu nhìn chung đã chuyển dịch theo hướng tăng dần sản phẩm chế biến, giảm hàng nguyên liệu thô và sơ chế. Tuy hàng thô và hàng sơ chế hiện nay còn khá cao nhưng có thể nói xu hướng tăng tỷ trọng hàng chế biến là rõ nét. Hàng nguyên liệu thô ở giai đoạn 1990-1995 ở mức 74,6%, thể hiện sản phẩm của Việt Nam không đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, đến giai đoạn 2001-2005 tỷ lệ này giảm xuống còn 45,3%. Ngành công nghiệp chế biến giai đoạnh năm 1990 là 33% đến nay đã tăng 41%. Nhiều sản phẩm như dầu thô, dệt may, giày dép, hải sản, cao su đều đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu đã có những thay đổi lớn, chuyển dịch theo hướng tích cực và đa dạng hoá: Giai đoạn 1986-1990, xuất khẩu sang châu Âu đứng đầu về tỷ trọng với 51,7%, đến giai đoạn 2001-2005 chỉ còn 20,7% Thay vào đó tỷ trọng xuất khẩu và thị trường, Châu Á, Mỹ, Nhật Bản. Hiện nay Mỹ chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam. Cùng với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, nhập khẩu cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng tăng cao. Mặc dù nền kinh tế còn nhiều yếu kém, hàng hoá nhập khẩu trước kia chủ yếu là hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, đến nay cơ cấu nhập khẩu đã có hướng thay đổi tích cực, hướng vào mục tiêu chủ yếu là phục vụ chiến lược hàng xuất khẩu, tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất...Thị trường nhập khẩu đa dạng, chất lượng hàng nhập khẩu được nâng cao, điều này cùng góp phần đổi mới trang thiết bị kỹ thuật và qui trình sản xuất tiên tiến, nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. Nhập siêu giai đoạn 2001-2005 tương đương với 20,6 tỷ USD, chiếm 18,8% trong tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá. Có thể thấy được tình trạng nhập siêu cao có nhiều yếu kém trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá, đó là việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu còn chậm, chưa tạo được ngành kinh tế chủ lực dựa trên các lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh của đất nước. Chính sách bảo hộ không khuyến khích được các doanh nghiệp phát triển, công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế... Mét sè cam kết WTO của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại: Về dệt may, các nước thành viên không được áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam khi gia nhập WTO, riêng trường hợp Việt Nam vi phạm qui định về trợ cấp đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện pháp trả đũa nhất định. Ngoài ra, các thµnh viên của WTO cũng sẽ không được áp dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của Việt Nam. Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo qui định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá. Tuy nhiên, với các ưu đãi dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành dệt may. Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, Việt Nam được bảo lưu quyền được hưởng một số qui định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO qui định phải cắt giảm, nhìn chung Việt Nam duy trì ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, Việt Nam còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Có thể nói, trong nhiều năm tới, ngân sách của nước ta chưa đủ sức để hỗ trợ cho nông nghiệp ở mức này. Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên Việt Nam được áp dụng không hạn chế. Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hoá, tuân thủ quy định WTO, Việt Nam đồng ý cho các cá nhân nước ngoài được quyền xuất, nhập khẩu hàng hoá như người Việt Nam kể từ khi gia nhập , trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại như: xăng dầu, thuốc lá, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi như gạo và dược phẩm. Về yêu cầu minh bạch hoá, cam kết ngay từ khi gia nhập sẽ công bố dự thảo các văn bản qui phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Cam kết sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên. Về thuế nhập khẩu, mức cam kết chung là đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng), hầu hết các mức thuế bình quân đều được giảm xuống và được thực hiện trong vòng 5-7 năm. Ngoài ra Việt Nam cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà Việt Nam cam kết là các sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào kinh tế khu vực và quốc tế, đặc biệt là hội nhập WTO trong thời gian tới sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động xuất, nhập khẩu của Việt Nam. Đây là một sân chơi lớn mang tính toàn cầu, khi gia nhập WTO Việt Nam sẽ tăng vị thế của mình trên trường quốc tế, có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu, thu hút đầu tư trong và ngoài nước...Gia nhập các tổ chức kinh tế và tham gia các hiệp định thương mại song phương và đa phương sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam phát huy lợi thế so sánh, giải quyết được các trở ngại trong các lĩnh vực sản xuất là sự hạn chế về thị trường xuất khẩu. Gia nhập WTO mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một số thuận lợi: Mở rộng thị trường, tăng khả năng tiếp cận thị trường cho doanh nghiệp. Nhờ tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam có thể xuất khẩu vào toàn bộ 149 nước thành viên của WTO với mức thuế ưu đãi, thay vì chỉ có một số thị trường truyền thống như hiện nay. Đối với các nước có lợi thế so sánh như có nguồn lực tự nhiên dồi dào, lao động rẻ thì là điều kiện để thúc đẩy mạnh khả năng xuất khẩu để đạt được lợi ích kinh tế tối ưu. Sản lượng xuất khẩu cũng sẽ được cải thiện đáng kể, tạo thêm cơ hội sản xuất và xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các ngành mà Việt Nam có ưu thế cạnh tranh (ví dụ như hàng nông sản, hàng dệt may...) Doanh nghiệp của Việt Nam sẽ được hưởng cơ hội này từ hai phương diện: Một là do những qui định của WTO; hai là do ưu thế cạnh tranh về giá cả, chi phí đem lại. Hiện nay, hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế quan phi tối huệ quốc (non –MFN) và khoảng 40%, cao hơn nhiều so với thuế quan trong WTO (mức thuế quan đánh vào hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ hiện tại cao gấp 3 lần mức thuế quan nếu Việt Nam là thành viên của WTO); Nâng cao vị thế trong quan hệ thương mại quốc tế và bình đẳng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế: Tiếp cận bình đẳng vào thị trường các nước thành viên; Doanh nghiệp Việt Nam được hưởng các qui định chỉ dành cho thành viên WTO, hàng hoá của Việt Nam sẽ không bị chèn ép, các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu sẽ được dỡ bỏ... Việt Nam đã phải chịu nhiều tổn thất thương mại quốc tế với các đối tác nước ngoài do Việt Nam chưa được là thành viên WTO, ví dụ như các biện pháp bảo hộ sản xuất nội địa của Mỹ cũng đang tạo ra những rào cản thương mại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là hai vụ kiện “ bán phá giá “ cá da trơn và tôm đông lạnh; Việt Nam sẽ thực thi các chính sách mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, cải cách nền kinh tế. Các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ được thụ hưởng từ những cải cách này và sẽ có một sân chơi bình đẳng; Tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Với tư cách là thành viên của WTO, môi trường đầu tư của Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi hơn, thu hút nhiều vốn FDI và đây là cơ hội tốt và sẽ mang lại lợi ích lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Vốn đầu tư, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, quản trị kinh doanh của các nhà đầu tư, các tập đoàn nước ngoài là những tác nhân quan trọng trong quá trình sản xuất, đẩy mạnh thị trường, tạo việc làm. Tuy nhiên cũng có các thách thức lớn cho sự phát triển kinh tế, Việt Nam phải tuân thủ các luật lệ của WTO, bao gồm việc cắt giảm thuế, mở cửa thị trường dịch vụ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Mở cửa nền kinh tế cũng có nghĩa là nền kinh tế Việt Nam nói chung cũng như các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Các doanh nghiệp trong nước nào thiếu khả năng cạnh tranh sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc đi đến phá sản, thách thức đó là: Nguy cơ bị mất thị phần, mất thị trường: Điều này không thể xem nhẹ, cơ hội dành cho các doanh nghiệp của Việt Nam cũng là cơ hội dành cho các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam. Đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam vì hiện nay số lượng doanh nghiệp Việt Nam rất đông, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một số ngành có khả năng cạnh tranh thấp sẽ bị ảnh hưởng, bên cạnh đó với năng lực tài chính yếu, các doanh nghiệp của Việt Nam khó có thể đầu tư ra nước ngoài để tận dụng những lợi thế ưu đãi của WTO; Nguy cơ bị các doanh nghiệp nước ngoài cạnh tranh, chèn ép, mua lại do các doanh nghiệp lớn có tiểm lực về kinh tế, vốn đầu tư, tiếp cận tài chính. Tác động của WTO đối với một số lĩnh vực: Về lĩnh vực nông nghiệp: Kể từ khi đổi mới, cùng với những cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp như thực hiện các chính sách giao đất cho hộ nông dân, tạo quyền tự chủ cho nông dân trong việc sản xuất và mua bán sản phẩm, chuyển đổi cơ cấu phát triển nông nghiệp... là những yếu tố tích cực góp phần phát triển ngành nông nghiệp. Nhiều sản phẩm nông sản như gạo, chè, cà phê, hạt điều trở thành những mặt hàng nông sản chính xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam hiện đang là một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới, xuất khẩu gạo tăng nhanh từ chỗ 1,9 triệu tấn năm 1995 lên mức 5 triệu tấn năm 2006. Các mặt hàng nông sản khác như cà phê, cao su, hạt tiêu cũng tăng nhanh đáng kể: Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được một loạt các ngành hàng có năng lực sản xuất lớn, có sức cạnh tranh cao và có kim ngạch xuất khẩu cao trên thế giới như gạo, cà phê, cao su...Tuy nhiên, do hiện nay vẫn còn một số hạn chế về tiếp cận thị trường hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn bị hạn chế. Gia nhập WTO giúp cho các doanh nghiệp sản xuất tiếp cận được với các yếu tố đầu vào giá rẻ do thuế nhập khẩu của các sản phẩm như máy móc nông nghiệp, các sản phẩm hoá chất ở mức thấp, thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ và cơ khí hoá ngành nông nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông nghiệp, ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài có thể mang công nghệ và thương hiệu từ nước ngoài vào và có quyền huy động cả nguồn lực của Việt Nam để thực hiện hoạt động kinh doanh các mặt hàng nông sản của Việt Nam sẽ có cơ hội phát triển. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải thực hiện các cam kết của mình trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đây cũng không phải là vấn đề mới đối với Việt Nam nhưng trước yêu cầu về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng được nâng cao của người tiêu dùng nước ngoài do vậy các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ gặp khó khăn nếu như không nắm bắt được thông tin và các yêu cầu này một cách kịp thời để đầu tư về việc tăng cường năng lực mới về kỹ thuật. Vấn đề về dư lượng thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh , hoá chất và chất phụ gia trong các sản phẩm nông sản và thực phẩm vẫn là vấn đề còn tồn đọng chưa giải quyết được triệt để. Về lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam rất có thế mạnh trong xuất khẩu các mặt hàng như dầu thô, dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, điện tử...cụ thể: Việt Nam là một nước sản xuất và xuất khẩu dệt may tương đối lớn. Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Năm tăng liên tục từ năm 1998 đến nay, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. Đối với ngành dệt may: trước hết, ngành dệt may sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển do sẽ không bị áp chế độ hạn ngạch từ thị trường Mỹ, dệt may có thể đạt mức tăng trưởng mạnh trong những năm tới do ngành này sẽ không còn bị giới hạn về hạn ngạch xuất khẩu nữa. Hiện nay, mặt hàng dệt may chủ yếu được xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản, việc bãi bỏ hạn ngạch có tác động chủ yếu từ phĩa Mỹ và EU, thị trường Nhật Bản hầu như không áp hạn ngạch cho mặt hàng này. Ngành dệt may cũng được đối xử bình đẳng ở các thị trường, sẽ có thêm nhiều nguồn vốn đầu tư đổ vào Việt Nam do vậy sẽ cải thiện được cơ sở hạ tầng cũng như nguồn nhân lực. Tuy nhiên, với thị trường Mỹ, mặc dù không còn chế độ hạn ngạch nhưng không có nghĩa là mọi rào cản đã bị xoá bỏ, Bộ Thương mại Mỹ vẫn theo dõi tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam và có thể đưa ra các chính sách hạn chế khi cần thiết như đã từng làm với Trung Quốc, đồng thời, Việt Nam sẽ gặp phải khó khăn do hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ không còn. Toàn bộ thuế nhập khẩu hiện nay sẽ phải giảm xuống mức thấp từ 10-15%, là mức chung của các thành viên WTO (mức thuế hiện nay đối với các sản phẩm may mặc là 50%, sản phẩm sợi là 20% và các sản phẩm vải là 40%). Như vậy, sản phẩm dệt may của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng dệt may nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa, ngoài ra, hàng dệt may của Việt Nam còn phải cạnh tranh với hàng của Trung Quốc, Ấn Độ, Bănglađét, do vậy ngành dệt may Việt Nam cần phải xác định kế hoạch chuyển sang sản xuất hàng cao cấp, chất lượng cao có nhiều tính năng khác biệt để cạnh tranh được với các nước khác. Đối với mặt hàng dầu thô: Có thể nói rằng Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Đặc biệt là có nguồn tài nguyên năng lượng có trữ lượng lớn. Là một nước xuất khẩu dầu mỏ (chiếm khoảng 1/5 tổng trị giá xuất khẩu), Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nguồn thu này. Từ năm 1998 đến nay, sản lượng xuất khẩu dầu thô liên tục tăng, bình quân khoảng 17,2 triệu tấn mỗi năm, hầu hết sản lượng khai thác được đều giành cho xuất khẩu vì hiện nay Việt Nam chưa có nhà máy lọc dầu. Việc gia nhập WTO sẽ có những tác động lớn đến ngành khai thác, chế biến và xuất khẩu dầu mỏ. Sau khi gia nhập WTO Việt Nam có thể bị hạn chế trong việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Nếu như Việt Nam đặt ra hạn ngạch xuất khẩu hoặc ở một mức nào đó để dầu mỏ sản xuất ra thay vì hướng vào tiêu thụ nội địa với giá trong nước thấp hơn giá quốc tế thì cũng vi phạm vào các qui tắc của WTO về tính phân biệt. Mặt hàng giày dép là một trong những mặt hàng chủ lực góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong những năm qua, mặt hàng này đang bị kiện bán phá giá vào thị trường EU. Tuy nhiên, khi đã là thành viên của tổ chức WTO mặt hàng này sẽ có nhiều cơ hội để xuất khẩu hơn, đặc biệt là xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản... Các nhóm hàng công nghiệp khác như sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, linh kiện điện tử, vi tính sẽ có cơ hội để mở rộng thị trường để tăng kim ngạch xuất khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu: Trong khi gia nhập WTO, kim ngạch nhập khẩu sẽ tăng mạnh do việc giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, do vậy các doanh nghiệp tiếp cận với các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, bên cạnh đó, một yếu tố không kém phần quan trọng là do chi phí sản xuất trong nước hiện nay còn cao do nhiều ngành công nghiệp chưa phát triển, năng lực cạnh tranh còn hạn chế. Tóm lại, trong bối cảnh của các nước đang phát triển, đặc biệt của Việt Nam thì việc gia nhập WTO sẽ có nhiều lợi ích, thúc đẩy được hoạt động xuất khẩu và đầu tư. Để tham gia và WTO một cách chủ động, về phía Chính phủ và các Bộ, ngành cần xây dựng hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, đề ra các tiêu chuẩn, qui phạm để bảo vệ lợi ích trong nước, lợi ích của người tiêu dùng phù hợp với các qui định trong WTO. Phổ biến rộng rãi nội dung cam kết đến các cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp, từ đó tận dụng các cơ hội mở cửa, ứng phó với các thách thức nảy sinh. Nâng cao vai trò của công tác thông tin, dự báo, phân tích thị trường, về quan hệ cung - cầu, diễn biến giá cả những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, những mặt hàng chiến lược phải nhập khẩu, nắm bắt nhanh các chủ trương chính sách của các nước đối tác để chủ động điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu, giảm thiểu rủi ro. Tạo môi trường ổn định để khuyến khích các nhà đầu tư, các đối tác kinh doanh yên tâm đầu tư làm ăn với doanh nghiệp của Việt Nam, nhờ đó sẽ thu hút được nguồn vốn, công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý gia tăng thương mại, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp cần có chiến lược sản xuất kinh doanh phát triển phù hợp, để tận dụng hiệu quả các cơ hội xuất khẩu nhờ việc gia nhập WTO. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đầy đủ các cam kết gia nhập và các thông lệ quốc tế có liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh cho từng giai đoạn và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đối phó với rủi ro. Chú trọng xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, các hàng rào kỹ thuật phù hợp với qui định của WTO đối với những mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu. Tiếp tục triển khai một số công cụ quản lý nhập khẩu mới phù hợp với quy định của WTO. Sắp xếp lại sản xuất và kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Tài liệu tham khảo: Xuất nhập khẩu 20 năm đổi mới của TCTK Bản tóm tắt cam kết WTO của Việt Nam TX- Vụ CSTT
Nhân kỷ niệm một năm ngày Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới, chúng tôi muốn đề cập đến những thách thức đặt ra đối với nước ta trước hết và chủ yếu là trên giác độ kinh tế; với tinh thần nhìn nhận khách quan, nghiêm túc để kịp thời có các giải pháp hữu hiệu giúp chúng ta tiếp tục gặt hái được những thành tựu mới khi tiếp cận với một vận hội mới.
Nhân sự kiện này, nhiều chính khách, nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã quan tâm xem xét những thành tựu đạt được sau một năm hội nhập, đồng thời xem xét các vấn đề đặt ra cùng những thách thức nảy sinh đối với Việt Nam. ở đây, chúng tôi muốn xem xét các thách thức của vấn đề này trên một số lĩnh vực, trước hết và chủ yếu là trên giác độ kinh tế và theo một cách nhìn khái quát hơn.
Khi chuẩn bị gia nhập WTO, chúng ta đã xác định một số thách thức sau đây:
Về kinh tế, trước hết là thách thức đối với việc điều hành kinh tế vĩ mô, trong đó nổi bật nhất là chính sách tiền tệ; bên cạnh hàng loạt vấn đề khác như: các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh khốc liệt với doanh nghiệp nước ngoài vốn có ưu thế vượt trội; vấn đề hạ tầng kỹ thuật, nhất là nguồn điện thiếu một cách trầm trọng, giao thông yếu kém, không đi kịp với nhu cầu phát triển kinh tế với tốc độ nhanh; vấn đề thiếu hụt lực lượng lao động đã qua đào tạo v.v... Về xã hội, đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc, đe dọa sự ổn định của xã hội. Về chính trị, việc gia tăng sự can thiệp chính trị từ bên ngoài. Về văn hóa, nguy cơ đồng hóa về văn hóa, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc, sự tiếp nhận những yếu tố văn hóa nước ngoài không phù hợp với văn hóa dân tộc v.v...
Trên cơ sở những thách thức nói trên, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu và phân tích những diễn biến mới xuất hiện.
Nổi rõ nhất trước hết là thách thức đối với công tác điều hành nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ. Sau một năm trở thành thành viên của WTO, vốn đầu tư từ nước ngoài vào nước ta đạt con số đăng ký kỷ lục: 20,3 tỉ USD. Lượng kiều hối được chuyển về cũng cao hơn năm trước: hơn 5 tỉ USD. Tình hình này đã đặt các cơ quan điều hành kinh tế vĩ mô vào thế bất ngờ và không kém phần lúng túng. Hậu quả là một mặt, tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký xuống tới mức thấp nhất (chỉ 28%); trong khi đó, lạm phát lại tăng vọt lên hàng hai chữ số (khoảng 12%). Lạm phát cao làm cho giá cả hàng hóa tăng vọt; trong đó mức tăng giá cả năm của nhóm hàng lương thực, thực phẩm là 18,92%, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng là 17,92%... ảnh hưởng trực tiếp và khá sâu sắc đến đời sống của người dân, trong đó mức sống của công nhân, viên chức, người lao động hưởng lương, dân nghèo thành thị và nông dân đều giảm đáng kể và gặp nhiều khó khăn.
Việc kìm hãm lạm phát năm 2007 (với mục đích là mức lạm phát thấp hơn mức phát triển kinh tế) cuối cùng đã không đạt mục tiêu đặt ra. Dự báo đầu năm 2008, giá cả hàng hóa sẽ còn tăng hơn. Nếu trong năm 2007, Chính Phủ quyết định chịu lạm phát để tăng trưởng, thì đến cuối năm 2007 và đầu 2008 đã phải điều chỉnh; việc chống lạm phát vì thế đã trở thành nhiệm vụ ưu tiên cấp bách nhất.
Thách thức thứ hai, việc xóa bỏ hoặc hạ thấp hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nước ngoài sẽ bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải cạnh tranh trong thế không cân sức ngay trên "sân nhà". Nhìn chung, các doanh nghiệp trong nước còn thua kém khá xa các đối thủ cạnh tranh của nước ngoài cả về tiềm năng vốn, cả về công tác quản lý điều hành và khả năng tiếp cận thị trường. Đây là thách thức quan trọng nhất và cũng được nói đến nhiều nhất ngay từ trong quá trình chúng ta chuẩn bị gia nhập WTO. Vượt qua được thách thức này hay không sẽ quyết định sự thành công hay thất bại của toàn bộ quá trình hội nhập của đất nước. Cùng với thực hiện lộ trình giảm thuế theo cam kết khi gia nhập WTO(1), thách thức này sẽ càng trở nên cam go. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự sẵn sàng đối đầu với thách thức này. Mặc dù thời gian qua đã có một số doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ liên kết lại với nhau, hoặc hình thành chuỗi siêu thị mới (như G7 Mart); hay như hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh đã được cải thiện rõ rệt trong năm qua. Tuy nhiên, những hoạt động như thế chưa nhiều, và có thể sẽ có nhiều công ty, doanh nghiệp bị phá sản phải giải thể, hoặc bị sáp nhập, hay bị mua lại bởi các tập đoàn và doanh nghiệp hùng mạnh, kinh doanh hiệu quả hơn.
Thách thức thứ ba, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, trước hết là vấn đề điện và hệ thống giao thông yếu kém, không đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển kinh tế đang diễn ra với tốc độ nhanh (khi vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều). Đây là một trong các nguyên nhân quan trọng kéo sụt tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đầu tư nước ngoài đã đăng ký.
Từ những cơ sở đáng tin cậy, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã cảnh báo rằng: nếu những khó khăn về giao thông và tình trạng thiếu điện trầm trọng chậm được khắc phục, thì tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta chắc chắn sẽ chậm lại là điều khó tránh khỏi.
Thách thức thứ tư, sự thiếu hụt lực lượng lao động, nhất là lao động đã qua đào tạo nghề. Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thì tỷ lệ người lao động đã qua đào tạo trong tổng số lực lượng lao động của chúng ta hiện nay thấp nhất trong khu vực. Ngày nay, người ta không còn coi lao động rẻ là lợi thế, vì thế lao động có tay nghề sẽ càng được chú trọng. Hệ thống giáo dục, đào tạo của chúng ta hiện nay không đáp ứng được yêu cầu về nhân lực của nền kinh tế do chất lượng đào tạo thấp, thiếu chiến lược tổng thể cũng như kế hoạch cụ thể. Sẽ rất khó vượt qua được thách thức này, nếu chúng ta không thay đổi và nhanh chóng cải tiến mạnh mẽ hệ thống giáo dục - đào tạo.
Thách thức thứ năm, cũng thuộc lĩnh vực kinh tế và là một thách thức có tính chất mới - cũ đan xen. Đó là chỉ trong vòng một năm trở thành thành viên của WTO, dòng vốn nước ngoài đầu tư vào nước ta đã tăng đột biến. Tổng số vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp đăng ký trong năm 2007 là 20,3 tỉ USD (tăng 68,8% so với năm 2006). Nguồn vốn này đặc biệt tăng nhanh ở các tháng cuối năm 2007. Sang đầu năm 2008, đã có một số doanh nghiệp đăng ký các dự án có tổng giá trị lên tới hàng tỉ USD. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư trực tiếp đang gia tăng có gia tốc. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài gián tiếp cũng tăng rất nhanh. Theo ủy ban Chứng khoán Nhà nước, tính đến giữa tháng 12-2007, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư tổng cộng gần 20 tỉ USD vào thị trường chứng khoán chính thức và không chính thức của Việt Nam; trong đó có 7,6 tỉ USD là cổ phiếu trên thị trường chứng khoán chính thức, (con số này tính đến năm 2006 mới chỉ là 2,3 tỉ USD). Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ khoảng 25% - 30% cổ phần của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và chiếm 18% giao dịch trên toàn thị trường. Các tỷ lệ đó sẽ tăng lên nhanh chóng, với lý do: Thứ nhất, các quỹ đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động tại Việt Nam đang nắm giữ một khối lượng vốn lớn, chờ dịp đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam; Thứ hai, trong năm 2008, Trung Quốc sẽ dành 141 tỉ USD để đầu tư vào châu Á, mà thị trường chứng khoán Việt Nam đang được họ đánh giá là thị trường có mức sinh lợi vào loại cao nhất khu vực nên chắc chắn sẽ được nhắm tới; Thứ ba - quan trọng nhất - theo các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, từ ngày 11-1-2008, tức sau một năm kể từ ngày chính thức trở thành thành viên chính thức của tổ chức này, Việt Nam phải bãi bỏ mức giới hạn tỷ lệ 49% nắm giữ cổ phiếu của các doanh nghiệp (trừ ngành ngân hàng và một số doanh nghiệp đặc biệt). Theo đó, vấn đề khó khăn nhất trong phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam là vốn. Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư rất lớn như đã nói ở trên từ các nước phát triển sẽ giúp chúng ta đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP, tạo được nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tiếp nhận công nghệ mới và khoa học kỹ thuật quản lý tiên tiến, chuyển dần sang phong cách làm việc mới, khoa học, hiệu quả hơn. Tuy nhiên, mặt trái của "tấm huy chương" thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài là, khi tỷ trọng khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế càng lớn thì sự độc lập về kinh tế của một đất nước càng giảm; đồng thời ảnh hưởng trực tiếp của khu vực này đến chính sách kinh tế (và không chỉ là kinh tế) cũng như việc thực hiện chính sách đó ngày càng gia tăng. GDP có thể tăng rất cao, nhưng chất lượng tăng trưởng lại thấp, nhà nước và người dân chỉ thu được rất ít lợi ích từ sự tăng trưởng đó. Các công ty nước ngoài chỉ quan tâm đến lợi nhuận, nên họ chỉ đầu tư vào những ngành nghề dễ mang lại lợi nhuận cao nhất, chẳng hạn như các ngành công nghiệp giải trí, du lịch. Trong khi đó, những ngành kinh tế có vai trò to lớn đối với xã hội nước ta như nông nghiệp lại ít được các công ty nước ngoài đầu tư vì tỷ suất lợi nhuận thấp. Tư đó dẫn tới hệ quả là, trong khi nền kinh tế đất nước sẽ phát triển thiếu cân đối, hài hòa; thì nguồn tài nguyên bị khai thác quá mức, môi trường càng có nguy cơ bị ô nhiễm.
Mặt khác, nếu như vốn đầu tư trực tiếp là vốn dài hạn và tương đối ổn định (vì nhà đầu tư không thể nhanh chóng thay đổi nhà máy, xí nghiệp đã xây dựng để chuyển vốn đi được), thì ngược lại, vốn đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán lại rất thiếu ổn định. Sự luân chuyển của dòng vốn ngắn hạn (một phần đáng kể vốn đầu tư chứng khoán thuộc loại này) hoàn toàn không bị kiểm soát, từ đó có thể dẫn đến một nguy cơ khác. Đó là việc thuyên chuyển mang tính đầu cơ của vốn ngắn hạn vượt quá khả năng điều tiết bằng công cụ kinh tế của nhà nước. Có thể chỉ sau một đêm, hàng tỉ USD đầu tư nhanh chóng được rút khỏi một đất nước, để lại sau lưng một nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, mà cuộc khủng hoảng vào cuối thập kỷ 90 ở Đông - Nam Á là một ví dụ cụ thể. Bởi thị trường vốn là tự do, nên nền kinh tế của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam dễ rơi vào trạng thái chông chênh, thiếu bền vững. Trong khi đó, với công nghệ tin học hiện nay, chỉ sau vài phút, thậm chí là nhanh hơn, mọi bất ổn trên thị trường chứng khoán của một nước đã được cập nhật tại các nước khác. Nếu khối lượng vốn và tỷ trọng của nó trong toàn bộ nền kinh tế là nhỏ thì nguy cơ này nhỏ. Thế nhưng, như trên kia đã nói, khi lượng vốn loại này (cũng như tỷ trọng của nó trong nền kinh tế nước ta) đang tăng đột biến, nên tương lai gần, nó sẽ có khối lượng và tỷ trọng đáng kể. Vì vậy, nguy cơ đang tiềm ẩn là có thực và việc đối đầu với nó là hoàn toàn không dễ dàng. Là thành viên của WTO, Việt Nam không thể dùng các biện pháp hành chính hoặc các biện pháp phi kinh tế khác để can thiệp vào thị trường vốn, hay can thiệp vào việc rút vốn ào ạt khỏi đất nước, nếu điều đó xảy ra. Cũng khó có thể thắt chặt thêm các quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán, vì điều này nếu được vận dụng, ngay lập tức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường này (như trường hợp của Thái Lan khoảng một năm trước đây).
Thách thức thứ sáu, thuộc về lĩnh vực xã hội. Trong khi diễn ra sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc, thì chỉ một năm sau khi gia nhập tổ chức WTO, tốc độ của sự phân hóa đó lại càng có xu hướng tăng nhanh hơn so với trước. Theo báo cáo của Chính Phủ tại phiên họp thường kỳ (tháng 12 năm 2007) thì số hộ nghèo đã giảm từ 19% xuống còn 14,87%. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã khẳng định: tốc độ xóa đói, giảm nghèo của chúng ta đang chậm lại; dân nghèo, nông dân không tiếp cận được với lợi ích từ tăng trưởng kinh tế. Một năm qua, tổng vốn hóa trên thị trường chứng khoán đã đạt hơn 492.900 tỉ đồng (tương đương với khoảng 30 tỉ USD); dự báo đến năm 2010, tỷ lệ vốn hóa sẽ là 50% GDP. Bên cạnh nhiều người giàu có đã thu lợi rất lớn từ lĩnh vực mới mẻ này, thì có đến 99,74% người dân vẫn chưa tham gia thị trường chứng khoán vì rất nhiều lý do. Cũng đã có những tính toán cho thấy: với khoảng thời gian 7 năm vừa qua, nếu kinh doanh chứng khoán, tỷ suất lợi nhuận là cao nhất (đến 800%); kinh doanh bất động sản có tỷ suất lợi nhuận là 500%; kinh doanh vàng có tỷ suất lợi nhuận là 300%... Như vậy, rõ ràng chỉ có những người giàu có mới có thể tham gia vào các loại hình kinh doanh vừa nêu. Những người thu nhập trung bình, nếu gửi tiết kiệm bằng đồng Việt Nam thì lãi suất thực tế hiện nay đang là con số âm. Trong khi một số người được thưởng tết năm 2007 lên đến hàng trăm triệu đồng, thì rất nhiều công nhân, giáo viên ở các huyện ngoại thành của một đô thị phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng nhanh như Thành phố Hồ Chí Minh lại không có, hoặc chỉ được vài trăm ngàn đồng. Hiện nay, viện phí và học phí dự tính sẽ tăng đang làm cho người nghèo lo lắng. Mức sống giảm tương đối của người nghèo có thể kéo theo sự bất ổn định xã hội. Nếu như việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không được tiến hành tốt cũng sẽ là một trong những tác nhân góp phần làm sâu sắc thêm sự phân hóa giàu nghèo.
Thách thức thứ bảy, vấn đề môi trường. Nếu như cho đến nay, sự phát triển kinh tế mới ảnh hưởng lớn đến môi trường ở các tỉnh thuộc các tam giác phát triển và một số tỉnh lân cận, thì từ nay về sau, với dòng vốn đổ vào nền kinh tế đất nước nhiều hơn, quỹ đất ở các khu tam giác càng bị thu hẹp, vốn đầu tư sẽ lần lượt chảy về các tỉnh còn lại. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến môi trường trên diện rộng. Do buộc phải hy sinh rừng để làm hồ chứa nước cho thủy điện, hay phá rừng phòng hộ ven biển để khai thác quặng ti-tan, lấp sông, hồ, kênh rạch để lấy mặt bằng xây dựng các nhà máy, khu công nghiệp v.v... đang làm cho môi trường bị đe dọa nghiêm trọng; giờ đây là vấn nạn nước thải, rác thải công nghiệp từ các khu công nghiệp mới được xây dựng. Đây là những thách thức mới và cũng đầy nan giải đối với các tỉnh mới phát triển, đòi hỏi các nhà lãnh đạo địa phương phải có bản lĩnh để kiên quyết từ chối các nhà đầu tư nếu thấy các dự án có nguy cơ đe dọa môi trường (như Đà Nẵng từ chối các dự án sản xuất thép vừa qua là một ví dụ).
Như vậy, đa số các thách thức hiện nay mặc dù đã được dự tính trước từ trong giai đoạn chuẩn bị gia nhập WTO, nhưng điều đáng nói là chỉ sau một năm, nhiều thách thức trong số đó giờ đây đã trở nên rõ ràng và lớn hơn; bên cạnh tuy không nhiều, nhưng một số thách thức mới cũng đã xuất hiện.
Giải quyết các thách thức trên là công việc của toàn xã hội, trước hết là trách nhiệm của Chính phủ, của chính quyền các địa phương đang thu hút đầu tư và của cộng đồng các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan, sau một năm gia nhập WTO, mặc dù những thách thức đang đặt ra là đáng báo động và không thể xem thường, nhưng những thành công nhiều và đáng kể hơn mà chúng ta đã đạt được, cùng những kinh nghiệm sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới cho phép tin tưởng rằng, chúng ta sẽ tiếp tục gặt hái được những thành công mới khi bước vào một vận hội mới trong tiến trình hội nhập.
* TS, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bên cạnh những cơ hội mở rộng, sự phấn khởi, hồ hởi của người dân khi Cộng đồng ASEAN và 1 trong 3 trụ cột là Cộng đồng kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC) đã chính thức hình thành - mà Việt Nam là 1 trong 10 nước thành viên, thì vẫn còn không ít băn khoăn, trăn trở về những khó khăn, thách thức của nền kinh tế đất nước.
Nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Lê Công Phụng phân tích, nhìn lại quá trình Việt Nam tham gia vào ASEAN đến nay cho thấy, ASEAN chính là cầu nối để Việt Nam hội nhập với thế giới. Trong quá trình đó, Việt Nam vừa đóng góp vào ASEAN về mặt kinh tế, vừa ngày càng phát triển, vươn lên mạnh mẽ.
Việt Nam đã đóng góp rất quan trọng vào tất cả các chương trình phát triển kinh tế của ASEAN, trong đó phải nói đến sáng kiến của Việt Nam về phát triển kinh tế vùng, miền được đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, hiện Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi vị trí của các nước nghèo nhất trong khu vực, đây là điều cần phải suy nghĩ: “Chúng ta đang băn khoăn vì vẫn là 1 trong 4 nước nghèo nhất ASEAN. Chúng ta rút ra khỏi nhóm 4 nước nghèo - vẫn thường gọi là V-L-C-M (Việt Nam – Lào – Campuchia- Myanma) được thì sẽ nâng được tầm của Việt Nam lên. Đến bây giờ chúng ta vẫn chưa qua được điều đó. Điều này đặt ra dấu hỏi rất lớn là tất cả mọi người Việt Nam phải làm gì để thoát khỏi cảnh là 1 trong những nước nghèo nhất trong ASEAN”.
Các chuyên gia cũng chỉ ra những hạn chế trong sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ nhìn nhận, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn trong mô hình tăng trưởng cũ và có thể nói là đã tới hạn, dựa quá nhiều vào vốn, lao động giá rẻ, tài nguyên trong nước, do đó chất lượng hàng hóa thấp, mẫu mã chưa đa dạng, giá thành lại cao. Các doanh nghiệp lớn có sức mạnh hơn nhưng vẫn chưa phải là thật tốt, còn dựa vào nhiều yếu tố không mang tính cạnh tranh như cơ chế xin – cho, lợi dụng sự ưu đãi nhất định từ những mối quan hệ nào đó. Khó khăn hơn cả là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, không đủ khả năng về vốn, công nghệ, nhân lực, quản lý…
Bối cảnh hội nhập mới đòi hỏi một sự thay đổi kịp thời về cơ chế, chính sách, tiếp tục gỡ khó cho doanh nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để nền kinh tế Việt Nam dần tiệm cận với các nước hàng đầu trong khu vực.
Chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ cho rằng: “Đi đôi với việc tháo gỡ những khó khăn ấy bằng thể chế, chính sách, cơ chế, sự hỗ trợ nào đó, thì cái quan trọng hơn là yêu cầu phải đạt tới chỉ số về môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh của chúng ta đòi hỏi càng ngày phải càng theo kịp các nước hàng đầu trong ASEAN. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề, chúng ta phải hết sức ủng hộ doanh nghiệp, còn doanh nghiệp thì không nên trông chờ vào sự hỗ trợ từ Nhà nước và từ bên ngoài mà phải tự thân mình vươn lên”.
Ông Nguyễn Thế Điệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Đức, Hà Nội cho rằng, nếu như các doanh nghiệp Việt Nam có sự nhạy bén để nhanh chóng hòa nhập với cái mới, thì yếu tố nhân lực, con người lại chính là điểm yếu. Các tập đoàn, công ty lớn của Việt Nam cơ bản đều phải thuê nước ngoài điều hành, điều khiển, đặc biệt là các doanh nghiệp về bất động sản, khách sạn, các văn phòng cho thuê hạng sang…
Khi gia nhập vào Cộng đồng kinh tế ASEAN, sẽ có thêm ngày càng nhiều tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài vào Việt Nam, do đó bên cạnh nâng cao năng lực quản trị, các doanh nghiệp Việt Nam nên hướng tới việc hòa vào các chuỗi giá trị trong khu vực và trên thế giới: “Các doanh nghiệp Việt Nam nên hòa vào các tập đoàn cũng như các công ty lớn có các chuỗi giá trị từ A đến Z, đóng góp 1 phần trong đó, dần dần nâng lên để làm sao cả chuỗi giá trị đó chúng ta có thể hoàn chỉnh được.
Hiện nay, chúng ta hội nhập không chỉ với các nước Đông Nam Á nữa mà cả thế giới, cho nên các tập đoàn lớn rất quy mô, chuyên nghiệp, khi họ vào Việt Nam cũng cần các đối tác trong nước, đối tác mang tính chuỗi giá trị. Rõ ràng chúng ta phải có chiến lược để làm sao bắt kịp cũng như hợp tác với các chuỗi giá trị toàn cầu thì sẽ bứt phá được”.
Nói đến yếu tố con người là không chỉ nói đến đội ngũ quản lý, mà còn là người lao động nói chung. Lao động Việt Nam đa phần còn yếu về trình độ tay nghề, kỹ năng mềm và khả năng ngoại ngữ, trong khi đây lại là những yêu cầu quan trọng khi Việt Nam gia nhập vào Cộng đồng kinh tế ASEAN. Năng suất lao động thấp cũng chính là một trong những thách thức lớn của Việt Nam khi hội nhập ngày càng sâu rộng.
Bà Vũ Thị Thanh Liễu - Phó Giám đốc Trung tâm dịch vụ việc làm Hà Nội (Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội) băn khoăn, thực tế là lao động của Việt Nam khi đi xuất khẩu lại được đánh giá cao, vậy thì việc năng suất lao động của Việt Nam còn thấp cũng có nguyên nhân từ sự đãi ngộ, cách quản lý của chính các doanh nghiệp trong nước. Đây là vấn đề cần nhìn nhận đúng để thay đổi kịp thời.
Gia nhập vào Cộng đồng kinh tế ASEAN, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để phát triển, nhưng muốn nắm bắt được cơ hội đó thì cần vượt qua được những thách thức, hạn chế, tồn tại. Để không bị thua ngay trên “sân nhà”, thì bên cạnh sự chủ động, tự hoàn thiện mình của đội ngũ quản lý doanh nghiệp và người lao động, cần có những cơ chế, chính sách mang tính đột phá nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích sự sáng tạo, vươn lên của các doanh nghiệp, cũng như đào tạo đúng hướng để có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động mới./.