International Trade Theory Là Gì

International Trade Theory Là Gì

Marketing thương mại (tiếng Anh: Trade Marketing) là quá trình tổ chức, quản lí và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức.

Marketing thương mại (tiếng Anh: Trade Marketing) là quá trình tổ chức, quản lí và điều khiển các hoạt động nhằm tạo ra khả năng và đạt được mục tiêu tiêu thụ có hiệu quả nhất sản phẩm của một tổ chức.

Cấm vận thương mại đối với người dân các quốc gia

Một khía cạnh thực tế của các lệnh cấm vận và trừng phạt là sự thể hiện của Chính phủ với người dân rằng các nhà lãnh đạo của họ sẽ có hành động chống lại mối đe dọa. Tuy nhiên, nạn nhân của các lệnh trừng phạt thường không phải là những người nắm quyền, mà là công dân của quốc gia đó bị ảnh hưởng.

Đây là trường hợp ở Iraq. Được dẫn dắt bởi nhà độc tài Saddam Hussein đã chứng minh sự thờ ơ của họ đối với phúc lợi của công dân, các nhà lãnh đạo quyền lực của Iraq đã thỏa thuận với các quốc gia khác về hàng hóa và dịch vụ trong các lệnh trừng phạt kinh tế. Kết quả là, họ được hưởng lợi cá nhân trong khi sức khỏe, sức mạnh và cơ sở hạ tầng của Iraq sụp đổ.

Quốc gia từng phát triển và thịnh vượng đã trở thành một vùng đất nơi các bệnh dịch đã bị xóa bỏ lại quay lại và trẻ em thì đang chết dần. Do kết quả của việc thương mại hợp pháp bị ngăn chặn, người dân chịu cảnh nghèo đói và phụ thuộc vào viện trợ lương thực từ Liên Hợp Quốc và giáo dục thì mai một.

Ít nhất 500.000 trẻ em đã phải chịu đựng và tử vong trong thời gian các lệnh trừng phạt kinh tế do Liên Hợp Quốc áp đặt và quốc gia này vẫn chưa được xây dựng lại hoàn toàn.

Như lịch sử ghi nhận, các lệnh cấm vận thương mại có sức mạnh ngăn chặn chiến tranh nhưng có khả năng gây ra hậu quả không lường trước được.

(Tài liệu tham khảo: investopedia, borgenproject, myaccountingcourse)

Cán cân thương mại (tiếng Anh: Balance of Trade) phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Cán cân thương mại được thể hiện bằng xuất khẩu ròng (Net Exports). Cán cân thương mại của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba tình huống: thặng dư, thâm hụt và cân bằng.

Cán cân thương mại (Balance of Trade)

Cán cân thương mại trong tiếng Anh là Balance of Trade. Cán cân thương mại phản ánh sự chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu.

Cán cân thương mại được thể hiện bằng xuất khẩu ròng (Net Exports)

NX (Net exports): xuất khẩu ròng

Hàm xuất khẩu theo sản lượng: X = f(Y) phản ánh lượng tiền mà nước ngoài dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ trong nước, tương ứng với từng mức sản lượng (trong nước) khác nhau.

Như vậy, nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào thu nhập của người nước ngoài, có nghĩa là chủ yếu không liên quan đến thu nhập và sản lượng của nền kinh tế trong nước.

Do vậy, chúng ta có thể coi nhu cầu xuất khẩu là độc lập, không phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập trong nước.

Hàm nhập khẩu theo sản lượng: IM = f(Y) phản ánh lượng tiền mà người trong nước dự kiến mua sắm hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, tương ứng với mức sản lượng (trong nước) khác nhau.

Nhu cầu nhập khẩu từ bên ngoài có thể là nguyên vật liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng của nhân dân...

Như vậy, nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng và thu nhập của nước nhập khẩu.

Hàm nhập khẩu là một hàm của thu nhập:

MPM (Marginal Propensity to Import) là xu hướng nhập khẩu biên. Nó cho biết khi thu nhập tăng lên một đơn vị thì công dân trong nước muốn chi thêm cho hàng nhập khẩu là bao nhiêu. Nói cách khác: MPM =  ΔIM / ΔY

Nguồn: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính

Cán cân thương mại của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba tình huống: thặng dư, thâm hụt và cân bằng.

Hình 3.14 cho biết: nếu nền kinh tế tạo ra sản lượng tại điểm Y1 thì cán cân thương mại thặng dư (X > IM), tạo ra sản lượng Y0 thì cán cân thương mại cân bằng và tại mức sản lượng là Y2 thì cán cân thương mại thâm hụt.

Như vậy, khi mức xuất khẩu và nhập khẩu không thay đổi thì trong trường hợp sản lượng quốc gia có xu hướng tăng lên, cán cân thương mại sẽ có khuynh hướng thâm hụt cao.

Điều này có nghĩa là trong quá trình phát triển kinh tế, cần phải dịch chuyển đường xuất khẩu lên phía trên thì gia tăng sản lượng sẽ làm giảm thâm hụt thương mại.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính)

Thương mại song phương (tiếng Anh: Bilateral Trade) là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.

Thương mại song phương trong tiếng Anh là Bilateral Trade.

Thương mại song phương là việc trao đổi hàng hóa giữa hai quốc gia xúc tiến thương mại và đầu tư.

Hai nước sẽ được hưởng giảm hoặc loại bỏ thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu và các rào cản thương mại khác để khuyến khích thương mại và đầu tư.

Cấm vận thương mại (Trade Embargo)

Cấm vận thương mại trong tiếng Anh là Trade Embargo.

Cấm vận thương mại là biện pháp cấm hoàn toàn quan hệ thương mại (xuất, nhập khẩu) đối với một quốc gia nào đó. Cấm vận có thể được thực hiện đối với một hoặc một vài, hoặc thậm chí đối với tất cả các mặt hàng.

Một lệnh cấm vận thường được tạo ra do kết quả của hoàn cảnh chính trị hoặc kinh tế không thuận lợi giữa các quốc gia. Biện pháp hạn chế thương mại phi thuế quan này mang tính khắc nghiệt nhất và thường nhằm đạt tới các mục tiêu chính trị.

Nó được tạo ra để cô lập một quốc gia và tạo khó khăn cho cơ quan quản lí của quốc gia đó, buộc nước này phải hành động về vấn đề dẫn đến lệnh cấm vận. Cấm vận có thể được những quốc gia riêng rẽ, hoặc các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc tiến hành.

(Theo Giáo trình Quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc dân)

Bản chất của Marketing thương mại

Mục tiêu của marketing thương mại cuối cùng vẫn phải là đảm bảo lợi nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên thị trường.

Nhưng, mục tiêu trực tiếp của marketing thương mại có thể được xác định là tạo ra những cơ hội lớn nhất để tiêu thụ được tốt nhất các sản phẩm của doanh nghiệp mà qua đó mới có thể đạt đến mục tiêu lợi nhuận.

Kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường phải chấp nhận rủi ro. Khả năng không tiêu thụ (bán) được sản phẩm luôn luôn xảy ra và thông thường là rất lớn.

Doanh nghiệp có thể gặp may ở từng thương vụ, nhưng xét trong tổng thể - nhu thực tiễn đã chứng minh – hiểm hoạ phá sản luôn xuất hiện khi mà "bán hàng là một bước nhảy nguy hiểm chết người".

Marketing thương mại được nghiên cứu và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại.

Người ta đã từng đưa ra và ứng dụng nhiều cách thức khác nhau để thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động thương mại. Nhưng, trước khi có hệ thống lí thuyết marketing thương mại, các cách thức đó chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn kinh doanh.

Thực chất của marketing thương mại là xác định lại cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và khách hàng trong hoạt động kinh tế.

Từ đó, sử dụng một cách đồng bộ và khoa học quan điểm lí thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.

(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Marketing thương mại, Chủ biên PGS. TS. Nguyễn Xuân Quang, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2007)

Cấm vận thương mại (tiếng Anh: Trade Embargo) là biện pháp cấm hoàn toàn quan hệ thương mại (xuất, nhập khẩu) đối với một quốc gia nào đó.

Cấm vận thương mại đối với chính phủ của các quốc gia

Mục tiêu của lệnh cấm vận thương mại là gây áp lực lên các chính phủ khác bằng cách cấm xuất khẩu và nhập khẩu từ các quốc gia đó. Các lệnh cấm vận thương mại thường được viện dẫn để chống lại các quốc gia thể hiện mối đe dọa đối với các quốc gia khác hoặc với chính người dân của họ.

Một trong những ví dụ đáng chú ý nhất của lệnh cấm vận này là lệnh cấm vận thương mại Cuba của Mỹ. Chính phủ Mỹ không đồng ý với chính phủ Cuba và do đó đã cắt đứt quan hệ với Cuba, từ đó các công ty của Mỹ giao dịch với Cuba là bất hợp pháp. Với mục đích là việc thiếu đi quan hệ thương mại sẽ làm tổn thương nền kinh tế Cuba và sẽ buộc chính phủ Cuba phải tuân thủ chính phủ Mỹ.

Tuy nhiên, đây không phải là hình thức cấm vận duy nhất. Các quốc gia thường tham gia vào các lệnh cấm vận chiến lược nhằm hạn chế việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ quân sự sang các quốc gia khác.

Điều này là phổ biến đối với các nước phát triển hỗ trợ một số quốc gia buôn bán vũ khí và quân sự và không hỗ trợ các nước khác. Điều này đúng trong trường hợp của Iran. Chính phủ Mỹ không cung cấp hỗ trợ quân sự cho Iran, nhưng Nga thì có.