Trong bối cảnh nhu cầu học tiếng Anh tăng cao, mức lương của giáo viên nước ngoài tại Việt Nam trở thành một chủ đề được quan tâm. Bài viết này sẽ khám phá và so sánh mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh tại các trường công lập, trung tâm ngoại ngữ, đại học, và trường quốc tế, nhằm đưa ra cái nhìn toàn diện về tình hình hiện nay.
Trong bối cảnh nhu cầu học tiếng Anh tăng cao, mức lương của giáo viên nước ngoài tại Việt Nam trở thành một chủ đề được quan tâm. Bài viết này sẽ khám phá và so sánh mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh tại các trường công lập, trung tâm ngoại ngữ, đại học, và trường quốc tế, nhằm đưa ra cái nhìn toàn diện về tình hình hiện nay.
Mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh thường bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố sau:
Mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh ở Việt Nam có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm loại hình công việc và địa điểm làm việc. Dưới đây là một cái nhìn tổng quan về mức lương tại các trường hay trung tâm hiện nay:
Yêu cầu đầu vào để trở thành giáo viên tiếng Anh tại thị trường Việt Nam đặt ra những tiêu chí quan trọng. Trong đó chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm là một yếu tố quyết định. Đây không chỉ là một giấy chứng nhận, mà còn là bằng chứng rõ ràng về việc hoàn thành khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm, đặc biệt là đối với những người không có bằng chuyên ngành sư phạm.
Yêu cầu về bằng cấp khá quan trọng trong quá trình tuyển dụng giáo viên nước ngoài tại Việt Nam. Tiêu chuẩn này có thể thay đổi tùy vào vị trí và đặc thù giáo dục của trung tâm/trường học. Người quản lý cần đảm bảo rằng giáo viên tuyển dụng có bằng cấp phù hợp với yêu cầu cụ thể của lĩnh vực giảng dạy.
Đối với giáo viên tiếng Anh, bằng cấp sư phạm giảng dạy hoặc bằng ngôn ngữ phù hợp kèm theo chứng chỉ giảng dạy tiếng Anh là yếu tố quan trọng. Đảm bảo giáo viên đáp ứng được yêu cầu ngôn ngữ và chuyên môn của trung tâm giáo dục.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất là kinh nghiệm của giáo viên. Những người có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm, thành tích xuất sắc thường được trả mức lương cao hơn. Các chứng chỉ giảng dạy và đào tạo nâng cao cũng có thể làm tăng giá trị cho mức lương.
Mức lương của giáo viên cũng phụ thuộc vào nơi họ dạy. Các thành phố lớn và khu vực có chi phí sinh hoạt cao thường có mức lương cao hơn so với các vùng nông thôn hoặc khu vực có chi phí sinh hoạt thấp.
Mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh có thể khác nhau tùy thuộc vào cấp bậc dạy học. Giáo viên ở các trung tâm ngoại ngữ hoặc các trường đại học có thể nhận được mức lương cao hơn so với giáo viên ở trung học hoặc tiểu học.
Có một số đồn đoán rằng việc làm giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh ở Việt Nam có mức lương vô cùng hấp dẫn và điều kiện làm việc thoải mái. Thực tế, mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh thường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại hình công việc, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, và đặc biệt là địa điểm làm việc. Các giáo viên tại các trường quốc tế thường nhận được mức lương cao hơn so với các trung tâm ngoại ngữ hay trường đại học.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc làm giáo viên nước ngoài cũng đặt ra những yêu cầu cao. Bao gồm trình độ giáo dục, chứng chỉ, năng lực giảng dạy,… Đồng thời, môi trường làm việc cũng có thể đòi hỏi sự linh hoạt trong lịch trình. Đặc biệt là tùy thuộc vào loại hình trường hoặc trung tâm mà giáo viên làm việc.
Trong môi trường giảng dạy tiếng Anh ở Việt Nam, việc nhận mức lương cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Không phải tất cả giáo viên đều có cùng mức thu nhập. Quan trọng nhất là giáo viên cần xác định rõ yêu cầu của mình, có kế hoạch phát triển sự nghiệp và tìm kiếm cơ hội phù hợp với mục tiêu cá nhân của mình.
Ngoài các tiêu chí về bằng cấp và giấy tờ cơ bản đã được đề cập trước đó, trung tâm/trường học cũng đặt ra những yêu cầu cao cấp hơn về kinh nghiệm và trình độ chuyên môn của giáo viên nước ngoài.
Mức lương giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh tại Việt Nam ngày nay không chỉ phản ánh sự tăng cường giáo dục quốc tế mà còn thể hiện sự cạnh tranh và sự đa dạng trong ngành giáo dục. Qua bài viết, chúng ta đã nhìn nhận rõ hơn về những yếu tố ảnh hưởng đến lương giáo viên tiếng Anh người nước ngoài, từ yêu cầu về trình độ đến loại hình công việc. Đồng thời, bài viết cũng nhấn mạnh rằng sự thành công và hài lòng trong ngành giáo dục không chỉ phụ thuộc vào mức lương mà còn đến từ đam mê, sự sáng tạo và sự thích ứng với môi trường làm việc đa dạng của Việt Nam.
Nước lớn (cường quốc) là khái niệm dùng để chỉ những quốc gia có diện tích rộng, dân số đông và có nguồn lực phát triển vượt trội so với nhiều nước khác. Đó là nước có tiềm lực, sức mạnh và ảnh hưởng vượt trội về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế và văn hóa, có khả năng tạo ảnh hưởng, chi phối và định hình chính sách và hành vi của các quốc gia khác trên thế giới cũng như chi phối sự vận động của hệ thống quan hệ quốc tế, của các xu thế quốc tế và việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu.
Hiện nay, không có một nhận thức thống nhất hay một định nghĩa chung về nước lớn. Việc phân định nước lớn - nước nhỏ phụ thuộc vào góc nhìn từ mỗi quốc gia dựa trên sự so sánh tương quan sức mạnh, vị thế và sự ảnh hưởng của quốc gia đó với các quốc gia khác. Theo đó, một quốc gia có thể là nhỏ trong mối quan hệ này nhưng lại được xem là lớn trong mối quan hệ với những nước khác và ngược lại(1). Thí dụ như: Canađa, Braxin và Ốtxtrâylia là nước lớn trên thế giới về mặt diện tích lãnh thổ và nguồn lực tài nguyên; Ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan là cường quốc dân số của thế giới. Tuy nhiên, sức mạnh tổng hợp của các quốc gia này chưa đạt tới vị thế của một cường quốc thế giới. Trên thực tế, trong việc phân định và đánh giá một nước là lớn hay nhỏ, yếu tố sức mạnh tổng hợp mà nổi bật là sức mạnh quân sự, kinh tế và khoa học - công nghệ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Hà Lan là một quốc gia nhỏ ở châu Âu, nhưng thế kỷ XV-XVI với sức mạnh vượt trội của mình, đã “bá quyền” cả thế giới với mệnh danh “Người đánh xe trên biển”. Nước Anh với diện tích chỉ hơn 200 nghìn km2 nhưng trong thế kỷ XIX được mệnh danh là “Đất nước mặt trời không bao giờ lặn”. Hiện nay, Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản mặc dù về diện tích và dân số họ chỉ là những quốc gia trung bình của thế giới, nhưng với sức mạnh tổng hợp của mình đặc biệt là về kinh tế, khoa học - công nghệ, quân sự cũng như vị thế quốc tế, họ được xem là những nước lớn của thế giới. Cũng xét theo tiêu chí này, một số nước dù là nhỏ như Hàn Quốc hay Ixraen, thậm chí rất nhỏ về mặt diện tích và quy mô dân số như Xinhgapo và Qatar nhưng lại sở hữu sức mạnh kinh tế, khoa học - công nghệ, quân sự và tầm ảnh hưởng quốc tế đáng khâm phục.
Tuy nhiên, dựa vào tổng hợp các tiêu chí nhận diện như đã nêu trên và theo cách hiểu phổ biến hiện nay thì năm nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc và cũng là năm quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, bao gồm: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp được xem là các nước lớn hay cường quốc. Ngoài ra, Đức và Nhật Bản cũng được nhìn nhận như là những cường quốc bởi sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng quốc tế của họ. Trong đó, Mỹ là siêu cường toàn cầu duy nhất sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc và Nga được xếp ở cấp độ thứ hai sau Mỹ. Hai cường quốc này được xem là hội tụ đầy đủ những tiêu chí và khả năng để có thể vươn lên thành những siêu cường thế giới, đối trọng và sánh ngang với Mỹ. Xét về diện tích, dân số và tiềm lực phát triển thì Anh, Pháp, Đức và Nhật Bản có thể chỉ được nhìn nhận như những cường quốc khu vực hay châu lục nổi bật. Nhưng trên một số khía cạnh như: kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ và ảnh hưởng quốc tế thì bốn quốc gia này cũng có thể được xem như những nước lớn của thế giới. Bên cạnh đó, một số nước lớn được ví như là những cường quốc khu vực, hay là những cường quốc tầm trung, như: Braxin và Canađa ở châu Mỹ, Ấn Độ và Ốtxtrâylia ở châu Á và Thái Bình Dương; Ấn Độ được xem như là có tiềm năng nổi lên trở thành một cường quốc thế giới.
2. Tính chất của mối quan hệ nước lớn - nước nhỏ hiện nay
Quan hệ quốc tế ngày càng được dân chủ hóa, được điều chỉnh bởi Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, nhưng chính trị dựa trên sức mạnh vẫn là bản chất cốt lõi của chính trị quốc tế và ngoại giao. Theo đó, các nước lớn luôn có ảnh hưởng chi phối đối với các nước nhỏ, cũng như đóng vai trò chi phối, thậm chí quyết định sự vận động, phát triển của các xu thế quốc tế và cục diện thế giới. Nguồn gốc quy định bản chất của mối quan hệ nước lớn - nước nhỏ bao gồm: 1) tính chất bất đối xứng rõ rệt về sức mạnh tổng thể; 2) tâm lý và hành vi nước lớn – nước nhỏ hình thành từ hai phía, xuất phát từ tính chất bất đối xứng về sức mạnh; 3) trải nghiệm lịch sử khó khăn của mối quan hệ nước lớn- nước nhỏ.
Xuất phát từ sự chênh lệch vượt trội về tầm vóc và sức mạnh, các nước lớn thường mang tâm lý “đại quốc” và do đó thường có hành vi coi thường, lấn lướt và bắt nạt “tiểu quốc”(2). Ngược lại, các nước nhỏ thường phải kiềm chế, nhẫn nhịn, tôn trọng vị thế nước lớn, có khi, buộc phải “tuân theo” các nước lớn để được yên ổn. Sự bất đối xứng càng lớn cộng với sự gần gũi về mặt địa lý và những va chạm lịch sử sẽ càng làm gia tăng tâm lý và hành vi nước lớn - nước nhỏ(3). Trong mối quan hệ nước nhỏ với nước lớn, nước lớn thường làm chủ và có ảnh hưởng chi phối. Thông qua những đòn bẩy đa dạng, các nước lớn có thể ràng buộc, tác động tới việc định hình chính sách và hành vi, khiến các nước nhỏ hơn phải quan tâm tới lập trường, ý kiến và lợi ích của họ. Trong mối quan hệ lợi ích, các nước lớn thường bỏ qua hoặc xem nhẹ lợi ích của các nước nhỏ. Khi mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp xảy ra thì các nước lớn thường gây sức ép, buộc nước nhỏ phải thuận theo mình, bất chấp luật pháp quốc tế cũng như lợi ích chính đáng, hợp pháp của các nước nhỏ. Xuất phát từ xu hướng về thái độ, tâm lý và hành vi nước lớn - nước nhỏ mà hai bên thường nghi ngờ nhau, thiếu lòng tin chiến lược.
Trong mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh giữa các nước lớn, các nước lớn thường có xu hướng sử dụng các công cụ và nguồn lực đa dạng của mình cũng như khai thác mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa nước nhỏ với nước lớn đối thủ để thu hút và tập hợp các nước nhỏ về phía mình thông qua các chính sách chia rẽ, mua chuộc, lôi kéo, ràng buộc, chèn ép, gây áp lực và thậm chí đe dọa. Mặt khác, các nước nhỏ cũng rất dễ trở thành “con tin” hay “lá bài” để các nước lớn đem ra đổi chác, mặc cả, mua bán trong cuộc chơi quyền lực của họ.
Xét đến cùng, chính trị cường quyền (power politics) là quy luật mang tính bản chất của chính trị quốc tế, dù quan hệ giữa các quốc gia ngày nay đã khác xưa. Bối cảnh thế giới đương đại đã tạo ra những tiền đề và điều kiện để các nước nhỏ có thể khắc phục và vượt qua quan niệm “chư hầu - thiên tử” trong quan hệ với các nước lớn để có thể tự khẳng định mình như những chủ thể độc lập, bình đẳng trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Một là, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, sự bình đẳng giữa các quốc gia không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo đã được ghi rõ trong Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế. Nhân loại văn minh ngày nay không chấp nhận mối quan hệ kiểu “đại quốc - tiểu quốc” trong chính trị quốc tế. Trật tự và luật chơi của thế giới ngày nay không còn hoàn toàn tuân theo quy luật “cá lớn nuốt cá bé”. Do vậy, các nước lớn dù đóng vai trò quan trọng cũng không thể quyết định vận mệnh của các nước nhỏ như trong quá khứ. Với sự hình thành Liên Hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, các nước nhỏ đã có thêm sức mạnh quốc tế để bảo vệ độc lập chủ quyền trước các nước lớn. Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mối quan hệ giữa các quốc gia dù nhỏ hay lớn, giàu hay nghèo, mạnh hay yếu đều dựa trên những nguyên lý cơ bản là bình đẳng, cùng có lợi, và trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế. Theo đó, các nước nhỏ cũng ngày càng có vai trò và tiếng nói lớn hơn trong việc giải quyết những vấn đề chung của nhân loại cũng như trong định hình trật tự quốc tế. Hai là, các nước nhỏ ngày nay có nhiều điều kiện và đòn bẩy hơn để khắc phục và giảm thiểu tính chất bất đối xứng, gia tăng sức mạnh và vị thế của mình trong quan hệ với các nước lớn. Mối quan hệ bang giao và việc xử lý mối quan hệ bất đối xứng với nước lớn của các nước nhỏ hiện nay không còn bị hạn chế và đóng khung trong quan hệ song phương hay trong không gian khu vực hạn hẹp mà được mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Theo đó, các nước nhỏ không còn phải đơn độc đối phó với các nước lớn mà có thể xây dựng cho mình các mối quan hệ quốc tế song phương, đa phương và các liên minh, liên kết khu vực, quốc tế đa dạng, chặt chẽ để gia tăng sức mạnh và vị thế cho mình trong mối quan hệ với nước lớn. Ba là, trong thế giới toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia có sự đan xen lợi ích chặt chẽ và phức tạp, tùy thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc. Theo đó, giữa nước nhỏ với các nước lớn cũng như giữa các nước lớn với nhau có sự ràng buộc và gắn kết lợi ích linh hoạt, đa dạng, chồng chéo trong mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh rất phức tạp. Điều này cũng góp phần giảm thiểu nguy cơ nước lớn thực hiện các chính sách phiêu lưu với nước nhỏ. Hơn nữa, thế giới toàn cầu hóa cũng tạo ra cơ hội cho các nước nhỏ, thậm chí rất nhỏ có thể nhanh chóng giàu mạnh và cường thịnh, từ đó có vị thế xứng đáng trên thế giới, nhận được sự tôn trọng và vị nể của các nước lớn.
Trong xử lý quan hệ với các nước lớn, các nước nhỏ thường theo đuổi những chính sách như: 1) “phù thịnh” (bandwagoning) là chính sách được nhiều nước nhỏ theo đuổi trong quan hệ với nước lớn. Theo đó, nước nhỏ lựa chọn “thần phục” nước lớn, chấp nhận địa vị thấp hơn của mình để có được lợi ích về an ninh, kinh tế và mối quan hệ tương đối ổn định với nước lớn(4). Chính sách trung lập cũng là một biến thể với nhiều sự tương đồng với “phù thịnh”. Điển hình cho chính sách trung lập là chính sách của Phần Lan trong quan hệ với Nga(5). 2) Cân bằng sức mạnh (power balancing) là một lựa chọn khác mà theo đó, nước nhỏ tìm cách đối trọng hay đối đầu với nước lớn thông qua các chính sách nhằm tăng cường sức mạnh bên trong cũng như xây dựng các liên minh quốc tế nhằm đối trọng với mối đe dọa được nhận thức bởi một nước lớn gây ra(6). Lựa chọn này thường rủi ro dẫn tới xung đột, chiến tranh và khi đó các nước nhỏ thường chịu nhiều thiệt hại. 3) “phòng bị nước đôi” (Hedging) là theo đuổi đồng thời nhiều chính sách khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa thỏa hiệp, vừa phòng bị, răn đe... để giữ mối quan hệ ổn định với nước lớn, khai thác được những lợi ích và mặt tích cực trong quan hệ với các nước lớn, đề phòng rủi ro chiến lược từ nước lớn(7). Trong một số trường hợp, các nước có thể kết hợp cả ba chiến lược trên cùng với những yếu tố khác của chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa thể chế tân tự do.
Dù lựa chọn nào thì trong quan hệ với nước lớn, “nhẫn nhịn”, “kiềm chế”, giữ được “hòa hiếu” là lựa chọn của hầu hết các nước nhỏ. Nhưng nhẫn nhịn và kiếm chế đến đâu là hợp lý, là giới hạn vừa đủ là vấn đề không dễ xác định trên thực tế, đặc biệt là khi nước lớn và nước nhỏ có mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích quốc gia cơ bản. Trong quan hệ với nước lớn, đôi khi chỉ một sự thiếu kiềm chế của nước nhỏ có thể dẫn tới những hệ quả tai hại. Tuy nhiên, bất cứ sự nhẫn nhịn hay nhượng bộ nào cũng đều có nguyên tắc và giới hạn nhất định. Trên thực tế, ranh giới giữa nhẫn nhịn, kiềm chế với nhịn nhục, cúi mình, cầu hòa, sợ hãi là rất mong manh và khó xác định. Nó phụ thuộc vào tầm nhìn, bản lĩnh, kinh nghiệm, sự nhạy cảm và nghệ thuật của người lãnh đạo. Hơn nữa, lịch sử đã chỉ ra rằng, đối mặt với tham vọng của nước lớn, các nước nhỏ nếu thiếu bản lĩnh, không giữ vững lập trường chiến lược, thậm chí nhịn nhục hay nhượng bộ một cách thiếu nguyên tắc sẽ khiến nước lớn tiếp tục lấn tới và nước nhỏ sẽ phải tiếp tục nhượng bộ, có nguy cơ bị nước lớn chèn ép.
Trong mối quan hệ giữa nước nhỏ với nước lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh là bậc thầy của nghệ thuật ứng xử. Người đã khôn khéo xây dựng và giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp với hầu hết các nước lớn, thậm chí ngay khi các nước lớn đó mâu thuẫn xung đột gay gắt với nhau. Từ đó, Người đã tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ quốc tế cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Thậm chí, Người nhận được sự tôn trọng của cả những nước lớn đang là kẻ thù của dân tộc. Nhà lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu cũng là một nhân vật điển hình của việc ứng xử với các nước lớn. Ông có công lao đưa tiểu quốc này từ một làng chài nhỏ bé, nghèo nàn, không tài nguyên, lại đứng giữa vòng vây thù địch của các nước lớn trong vòng gần ba thập kỷ trở thành một trong các quốc gia cường thịnh của thế giới. Singapore đã và đang nhận được sự nể trọng của tất cả các nước và là một mẫu hình phát triển cho nhiều quốc gia, trong đó có cả các nước lớn. Lý Quang Diệu là một nhà lãnh đạo có khả năng tạo sự cân bằng quan hệ với các nước lớn. Trong ứng xử với các cường quốc, ông luôn thể hiện một tư thế bình đẳng, đưa ra những nhận xét và đánh giá một cách thẳng thắn và sòng phẳng. Đối mặt với họ, Lý Quang Diệu sẵn sàng bảo vệ các lý tưởng và giá trị mà Singapore theo đuổi, thậm chí không ngần ngại thách thức các nước lớn để bảo vệ lợi ích quốc gia của Singapore cũng như bảo vệ sự tôn nghiêm của luật pháp và trật tự khu vực, quốc tế. Tuy nhiên, ông cũng sẵn sàng thỏa hiệp những lợi ích quốc gia không cơ bản, linh hoạt thay đổi để đạt được hiệu quả chính sách trên thực tế(8).
Như vậy, mối quan hệ của nước nhỏ với nước lớn là thực tế khách quan và luôn tồn tại trong chính trị quốc tế. Các nước nhỏ bằng sự đoàn kết, tầm nhìn, sự thông minh, ý chí và lòng quả cảm, có thể vượt lên, tạo ra và thay đổi được số phận của chính mình.
Do vị trí địa chính trị của mình mà Việt Nam luôn luôn phải đối mặt với việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn. Từ lịch sử cho đến hiện tại, các nước lớn thường có ảnh hưởng đối với an ninh và sự thịnh vượng của Việt Nam. Sống bên cạnh người láng giềng khổng lồ đã làm cho tâm lý nước nhỏ ăn sâu vào trong tư duy người Việt. Ông cha ta xưa tuy xưng đế nhưng bề ngoài luôn thể hiện sự thuần phục nước lớn, chấp nhận mối quan hệ thiên triều - tiểu quốc, nên dù đánh thắng vẫn sang cầu hòa, xin phong vương và triều cống đều đặn cốt giữ hòa bình, tự chủ cho nước Việt. Những bài học lịch sử của tổ tiên trong ứng xử với phương Bắc cùng với tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là di sản vô giá cho ngoại giao Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, quan hệ quốc tế ngày nay không còn kiểu quan hệ đại bá và tiểu quốc mà là mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi. Do đó, trong quan hệ với các nước lớn, chúng ta cần cởi bỏ tâm lý nước nhỏ vốn ăn sâu trong nếp nghĩ; phải đặt mình trong tư thế của một quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng trong quan hệ quốc tế; không tự ti, sợ hãi, cúi đầu. Mặt khác, không được kiêu ngạo hay tự huyễn hoặc vào sức mạnh của mình. Lịch sử cho thấy, quá tự hào vào sức mạnh của mình, tự ru ngủ mình trên chiến thắng trước các cường quốc, chúng ta đã phải trả giá đắt cả về an ninh, phát triển và đối ngoại. Ứng xử với nước lớn cần khiêm nhường, cẩn trọng, biết tự kiềm chế nhưng không được nhịn nhục, cúi mình, thỏa hiệp vô nguyên tắc. Điều quan trọng trong đối ngoại là biết mình biết người, cần nhận thức rõ vị thế và sức mạnh của Việt Nam trong thế giới đương đại, định vị được Việt Nam nằm ở đâu trong các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là trong mối quan hệ hợp tác - cạnh tranh giữa các nước lớn, trong sự vận động của địa chính trị và trật tự quốc tế, khu vực, từ đó nhận thức được khả năng và những giới hạn mà mình có thể hành động. Đặc biệt, không để mình bị cuốn vào vòng xoáy của trò chơi cạnh tranh quyền lực giữa các nước lớn, không thách thức nước lớn, không đi theo cường quốc này chống lại cường quốc khác, không theo phe cánh để đối trọng nhau mà biết khai thác mặt tích cực trong quan hệ với tất cả các nước lớn, giữ cân bằng ảnh hưởng và lợi ích của các nước lớn trong quan hệ với Việt Nam. Đồng thời, xây dựng được các mối quan hệ song phương, đa phương đa dạng, mạnh mẽ, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi với các quốc gia khác; tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, của các nước lớn cùng chia sẻ lợi ích, phải biết dựa vào các cơ chế đa phương khu vực, quốc tế, phải giữ vững tính chính nghĩa và dựa vào luật pháp quốc tế và những nguyên tắc phổ quát của mối quan hệ giữa các quốc gia được quốc tế thừa nhận để đối phó với nguy cơ từ nước lớn.
Thực tế cho thấy, các nước nhỏ cần kết hợp linh hoạt, uyển chuyển và khôn khéo giữa chủ nghĩa hiện thực chính trị, những nguyên tắc của chủ nghĩa lý tưởng mang bản sắc chủ nghĩa quốc gia và những nhân tố của chủ nghĩa tự do trong thời đại toàn cầu hóa. Trong đó, “đặt lợi ích quốc gia lên trên tất cả” phải là nguyên tắc xuất phát điểm, là cơ sở, là mục tiêu cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, và cũng là thước đo để đánh giá chính sách đối ngoại. Vượt qua rào cản ý thức hệ đã từng bó buộc ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh lạnh để tiếp cận nguyên tắc “đối tác - đối tượng” và nguyên tắc “lợi ích quốc gia” trong xử lý các mối quan hệ quốc tế là những bước đột phá trong tư duy ngoại giao Việt Nam. Những nguyên tắc này giúp chúng ta phá bỏ sự cứng nhắc trong ứng xử với các mối quan hệ quốc tế, từ đó, có sự linh hoạt, mềm dẻo trong xử lý các thách thức, nguy cơ và cho phép khai thác, phát huy mặt tích cực, thuận lợi trong quan hệ với các quốc gia trên thế giới để giữ vững độc lập, chủ quyền, sự ổn định chiến lược, tạo dựng môi trường phát triển thuận lợi, bền vững cho đất nước. Trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia của mình trước các nước lớn, cần giữ vững nguyên tắc và lập trường, không được thỏa hiệp vô nguyên tắc hoặc để bị chèn ép. Trong đó, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích quốc gia cốt lõi, căn bản nhất phải kiên quyết đấu tranh, giữ gìn, bảo vệ. Bên cạnh đó, phát triển phải là động lực quan trọng hàng đầu để được chú ý trong mọi chính sách quốc gia. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất bảo đảm an ninh, thịnh vượng bền vững, cũng như có được sự nể trọng của quốc tế. Việc bảo vệ cái bất biến của lợi ích quốc gia phải được thực hiện thông qua việc kiên định mục tiêu và tầm nhìn dài hạn, nhưng biết ứng biến linh hoạt, mềm dẻo về sách lược. Muốn vậy, phải nhận biết được lợi ích trực tiếp, trước mắt với lợi ích gián tiếp, mang tính chiến lược, lâu dài. Điều đó đòi hỏi nghệ thuật ngoại giao, sự nhạy cảm chiến lược trước những thay đổi của bối cảnh khu vực và thế giới, của xu thế thời đại và trật tự quốc tế, của tương quan sức mạnh giữa các lực lượng khu vực và toàn cầu, của xu thế chiến lược hợp tác - cạnh tranh giữa các nước lớn với nhau, cũng như của tiềm lực, sức mạnh tổng hợp và vị thế quốc tế của quốc gia. Từ đó, nhận thức đúng đắn các thách thức và nắm bắt chính xác thời cơ để điều chỉnh chính sách kịp thời, phù hợp với thực tế.
Muốn quan hệ bình đẳng, có sự tôn trọng và vị nể của nước lớn thì phải giữ được độc lập tự chủ, tự cường, có sức mạnh nội lực. Tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của đất nước là một trong những nhân tố then chốt tạo nên vị thế “lớn” hay “nhỏ” của một quốc gia và đó là bệ đỡ quan trọng nhất cho ngoại giao. Về điều này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “mình có mạnh thì người ta mới đếm xỉa đến, mình không mạnh thì chả ai đếm xỉa đến”. Người cũng khẳng định: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(9).
Thế giới đã cho thấy có những nước và vùng lãnh thổ với diện tích nhỏ, dân số rất ít, tiềm năng phát triển rất hạn chế nhưng họ không hề nhỏ bé với sức mạnh cứng, mềm và ảnh hưởng quốc tế vượt trên tầm vóc của chính mình. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, Việt Nam cần phải gia cường sự đoàn kết và ổn định nội bộ, chủ động hội nhập quốc tế, tập trung cởi bỏ các nút thắt phát triển, khai thác hiệu quả các thế mạnh và nguồn lực trong nước, tranh thủ vị trí địa chính trị quan trọng và lợi thế so sánh của mình trong hợp tác và phân công lao động quốc tế để phát triển đất nước, nhanh chóng đưa đất nước đi tới cường thịnh.
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số 11-2017
(1) Xem Buzan, Barry, People, States, and Fear: An Agenda for International Security Studies in the Post-Cold War Era. New York: Harvester Wheatsheaf, 1991.
(2), (5) Xem Nguyễn Vũ Tùng: “Sống chung với nước láng giềng lớn hơn: thực tiễn và chính sách”, Nghiên cứu quốc tế số 81, 2010, tr.169, 169-183, 173-174.
(3)Xem Nguyễn Vũ Tùng: Sdd, tr.169-183; Womack, B: China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, Cambridge: Cambridge University Press (2006); Womack, B., “Asymmetry and systemic misperception: China, Vietnam and Cambodia during the 1970s”, Journal of Strategic Studies, 26, 2010, tr.92-119.
(4) Xem Kang, D. C: “Getting Asia wrong: The need for new analytical frameworks”, International Security, 27(4-2003), 57-85; Roy, D. (2005), “Southeast Asia and China: Balancing or Bandwagoning?”, Contemporary Southeast Asia, 27(2), 305-322; Schweller, R. L. (1994), “Bandwagoning for profit: Bringing the revisionist state back in”, International Security, 19(1), 72-107; and Walt, S. M. (1987), The origins of alliances, Ithaca: Cornell University Press.
(6) Xem Waltz, K.N. (1979), Theory of international politics, New York: McGraw-Hill; Walt, S. M. (1987), The origins of alliances, Ithaca: Cornell University Press; Pape, R. A. (2005), Soft balancing against the United States, International Security, 30, 7-45; Paul, T. V., Wirtz, J. J. & Fortmann, M. (2004), Balance of power: theory and practice in the 21st century, Stanford, California: Stanford University Press.
(7) Xem Medeiros, E. (2005), “Strategic hedging and the future of Asia-pacific stability”, The Washington Quarterly, 29(1), 145-167; Goh, E. (2006), Understanding ‘Hedging’ in Asia-Pacific Security, Honolulu: Pacific Forum CSIS, PacNet 43, 31 August; and Hiep, L. H. (2013), “Vietnam’s hedging strategy against China since normalization”, Contemporary Southeast Asia, 35(3), 333-368.
(8) Xem Paul Englert, “Lest We forget: 5 key lessons in leadership from Lee Kuan Yew”, Linked in, on March 30, 2016. https://www.linkedin.com; Ang Cheng Guan, “Singapore and the Worldview of Lee Kuan Yew”, The Diplomat, on March 04, 2015. http://thediplomat.com.
(9) Hồ Chí Minh:Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.126.'
Nguồn: PGS, TS Nguyễn Viết Thảo - TS Ngô Chí Nguyện/ Tạp chí Lý luận Chính trị